Hiện nay, nước ta có nhiều tôn giáo nhưng có hai tôn giáo lớn đang tồn tại với qui mô tổ chức chặt chẽ với số lượng tín đồ khá đông. Đó là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong tôn giáo, vấn đề trang phục cũng có nhiều điều cần giới thiệu.

Trang phục Phật giáo

Phật giáo ở nước ta chia làm hai tông phái: Bắc tông và Nam tông.

- Các nhà sư Bắc tông (ở các chùa miền Bắc) mặc loại vải thô màu nâu (nhuộm bằng củ nâu). Về sau này đã dùng loại vải tốt, mịn hơn và có thể nhuộm bằng thuốc nhuộm. Ở trong nhà, mặc áo cánh ngắn nâu, quần nâu, nam cũng như nữ (gần đây sư nam mặc cả sơ-mi nâu). Ra đường hoặc khi có việc chùa, mặc áo dài tương đối rộng, không căng ngực, cổ tròn đứng, mềm, cài khuy kín cổ, khuy tết bằng vải nâu. Lúc làm lễ các sư bậc thấp mặc áo tràng vạt nâu, tay rộng, cổ chéo có nẹp rộng khoảng 5 cm. Các sư bậc cao mặc áo tràng vạt màu vàng (loại sắc). Bên ngoài còn khoác một tấm vải gọi là áo cà sa màu nâu hoặc màu vàng (loại sắc) tùy theo cấp bậc. Ngoài ra còn loại áo cà sa nhiều màu để dùng khi chạy đàn.

Áo cà sa là một miếng vải gần như hình vuông mỗi chiều rộng khoảng từ 2 m đến 3 m. Đây không phải là một tấm vải liền mà là do nhiều miếng ghép lại theo qui cách nhất định. Trong kinh Phật còn gọi là y pháp, gồm có các loại: y ngũ điều, y thất điều, y cửu điều, y thập nhất điều v.v...Y ngũ điều là do 5 mảnh (điều) ghép lại, y thất điều là do 7 mảnh (điều) ghép lại v.v... Mỗi loại dành cho từng trường hợp sử dụng.

Mô tả một tấm y ngũ điều, ta thấy như sau: Tùy theo chiều cao của người mặc, y ngũ điều có thể dài từ 1,6m đến 1,9m. Chiều ngang là năm miếng vải - tức là "điều" - mỗi "điều" có bề ngang là 40 cm. Nhưng năm "điều" không nối liền với nhau mà giữa hai "điều" lại có một dải vải bề ngang 5 cm ngăn cách (gọi là "cách"). Trên từng "điều" theo chiều dọc xuống, còn chia ra làm hai phần không đều nhau do miếng "cách" ngăn ra. Phần dài hơn gọi là "trường", phần ngắn gọi là "đoản". Ở "điều" thứ nhất: "đoản" ở trên, "trường" ở dưới thì ở điều thứ hai: "trường" lại ở trên, "đoản" ở dưới v.v..., tức là có sự sắp xếp so le "trường" và "đoản" giữa các "điều". Nhìn một y (áo) bao giờ các "đoản" cũng ở trên, để các "cách" (ngang) với số lượng nhiều hơn ở phía trên cho đẹp mắt. (Y ngũ điều có ba "cách" ở trên, hai "cách" ở phía dưới).

Ở y thất điều lại được bố trí nhất "đoản", nhị "trường". (Trong "điều" thứ nhất là một "đoản" hai "trường", đến điều thứ hai: hai "trường" một "đoản" v.v...). Viền quanh y là một nẹp rộng 10 cm gọi là riệp. Ở mép vải phía trên của bất cứ y nào, ở khoảng 2/3 chiều ngang tính từ trái sang phải, cũng có một cúc tết bằng vải khâu trên một miếng vải hình nửa cánh quạt (dài 9 cm). Cúc này được cài vào một khuyết (cũng được khâu ở giữa miếng vải hình hai cánh quạt) ở đoạn chiều dọc bên trái tấm áo, cách mép vải trên khoảng 20 cm. Cách mặc này là khi nhà sư khoác chéo áo, hở một cánh tay. Khi cúc cài vào khuyết, hai hình nửa cánh quạt chập vào nhau, cạnh đó lại có một dải vải trang trí nữa, rất đẹp. Miếng vải nhỏ trên đó có cúc, có khuyết được gọi là bàn đà.

Khi choàng áo này, người mặc cần buộc vào nhau hai dây vải trên hai bàn đà khác hình vuông đặt ở gần khoảng giữa tấm áo, dưới mép vải trên. Choàng và buộc dây xong, hai tay sẽ thường xuyên nâng hai bên tấm vải, coi như hai ống tay áo rất rộng.

Theo truyền thuyết trong đạo Phật, chiếc áo cà sa hình thành là do từ những miếng vải lẻ của nhân dân tứ phương lòng thành góp lại cho người tu hành. Khi có nhiều mảnh vải rồi, các nhà sư thỉnh xin đức Phật cho biết nên may áo theo kiểu cách nào. Nhân đi qua một cánh đồng, đức Phật liền chỉ tay và truyền may theo hình các thửa ruộng. Cũng vì lẽ đó mà tấm áo cà sa còn tên gọi là tấm pháp phúc điền, ý cầu mong lúa gạo nhiều, chúng sinh no ấm.

Loại áo cà sa nhiều màu (xanh, đỏ, tím, vàng, nâu...) cũng may theo qui cách như áo cà sa một màu, nói lên ý nghĩa tấm áo nhà chùa là do nhiều nhà đóng góp, mỗi nhà một mảnh, một màu khác nhau.

- Các nhà sư Nam tông, trang phục không may thành quần, áo như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải vàng hoặc nâu quấn, vắt trên người với các kiểu khác nhau. Có các hình thức sau đây:

1. Y nội: (còn gọi là y an đà hội) có tác dụng như quần áo lót gồm hai miếng vải. Miếng thứ nhất rộng 40 cm, dài từ 1m - 1,5m vắt từ trước ngực qua vai trái, qua lưng, chéo xuống sườn phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ để buộc lại với nhau. Miếng thứ hai để nguyên khổ vải (từ 70cm - 90cm), chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải dắt vào mép vải cho chặt (như chiếc váy).

2. Y vai trái (còn gọi là y uất đà la tăng). Mặc y vai trái cần theo một trình tự như sau: khoác tấm vải ra sau lưng, tay phải cầm mép vải (bên phải) luồn từ sau nách phải ra trước ngực rồi vắt phần vải còn lại qua vai trái (như vậy là cánh tay phải và cả hai vai phải để hở ra). Còn đoạn vải bên trái vắt chùm lên phần vải trước, qua vai, buông xuống phía ngực.

Ra đường, áo không được để hở vai và tay mà mặc theo trình tự như sau: Quàng tấm vải từ sau lưng ra phía trước hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai mép vải ở trước ngực. Cho tay trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một khoảng trống ở trước ngực. Xong lại kéo đoạn vải ấy tì vào ngực và dùng tay phải cuộn tròn từ hai mép đầu tấm vải vào dần cho đến đoạn tay trái đang giữ, thành một cuộn tròn dài thẳng đứng (tay phải cũng tì vải vào ngực mới cuộn dễ dàng được). Sau đó, nhờ có khoảng trống ở trước ngực, người mặc kéo mép vải trên lên đầu với mục đích cho mép vải phía dưới cao đến mắt cá chân. Tiếp tục vắt cuộn vải lên vai trái, đưa luồn dưới nách từ sau ra trước, cánh tay trái cặp chặt lại là xong. Như vậy, cánh tay trái sẽ không được tự do cử động bình thường.

Về đồ đội, xưa kia có loại nón riêng cho nhà sư gọi là nón tu lờ. Nón làm bằng lá gồi, gần như chiếc mũ rộng vành. Ngày nay không phân biệt, đi nắng, các sư ông đội mũ lá, mũ cát, có thời gian đội kiểu mũ hướng đạo nâu. Trời rét đội mũ len màu nâu, hình tròn ống, trên chiết khít lại, hay đan kiểu nổi múi nhỏ như hình bụt ốc trên đầu các tượng Phật. Các sư bà đội nón bình thường. Các nhà sư Nam tông không đội mũ, khi ra đường, nếu cần dùng ô màu vàng hoặc ô màu đen.

Nhất thiết các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Riêng nữ có khăn chít đầu. Đây là miếng vải dài 80 cm rộng từ 50 cm đến 60 cm, màu nâu như màu quần áo. Khi đội khăn xếp, gấp mép khăn (từ 5 cm đến 10 cm) theo chiều dài, chùm khăn lên đầu, mép chỗ gấp để trước trán, hai đầu khăn đưa ra phía sau rồi vắt chéo nhau ở gáy, nhét một phần vải hai bên ở đầu khăn vào trong, ở ngay sau hai tai.

Lúc làm lễ chạy đàn, nhà sư còn đội một loại mũ nhiều màu hình hoa sen, gọi là mũ thất Phật, gồm có bảy cánh, mỗi cánh thêu một hình Phật hay hình hoa sen, hình chữ phạn...

Tất cả các sư sãi Bắc tông đều đeo chuỗi hạt, gọi là tràng hạt. Có thể là một chuỗi dài hoặc hai, ba chuỗi ngắn, nhưng nhất thiết có 108 hạt, tượng trưng cho 108 quả bồ đề. Lần tràng hạt để mong bỏ đi 108 điều phiền não, điều xấu trong cõi đời trần tục.

Các nhà sư phái Nam tông không đeo tràng hạt. 

Trang phục Thiên Chúa giáo

Trang phục Thiên Chúa giáo ở Việt Nam thường thấy như sau:

Ngoài những tín đồ có sao mặc vậy (nhưng vẫn thường dùng áo màu đen), tầng lớp học sinh học ở các tiểu chủng viện trước đây bắt buộc phải mặc áo dài bằng vải màu đen, quần trắng. Ngày nay có thể mặc quần áo bình thường nhưng màu sắc không được sặc sỡ. Tóc cắt ngắn (thường là húi "cua", không được chải chuốt).

Qua bậc trung học, lên đến đại chủng viện, bình thường mặc áo dài đen, quần trắng. Khi lên nhà thờ hay ở cuộc lễ nghi nào đó, với chức Thày, đã được mặc áo chùng đen rộng, dài chấm gót chân. Tay áo rộng, thẳng đều. Cổ áo tròn, không cao lắm, và được lót ở trong một khoang vải hồ cứng màu trắng. Ở trước ngực áo có xẻ một đoạn để chui đầu, xỏ tay. Suốt từ cổ đến gấu áo, chạy dài một hàng khuy to.

Lên chức Cha, trừ khi ở trong phòng riêng, bước ra ngoài là Cha phải mặc áo chùng đen. Khi Cha mới chịu chức, phải cắt tròn một ít tóc trên đỉnh đầu. Sau để tóc cũng được, nhưng không được để tóc dài. Đội mũ sọ. Mũ sọ làm bằng vải hình tròn, giống như một chũm gáo dừa, đội một tí trên đỉnh đầu, chân đi giày đen.

Giám mục vẫn mặc áo chùng đen như Cha, còn khoác thêm một áo choàng đen ngắn bên ngoài, đeo thánh giá, thắt quanh bụng một băng vải màu tím đỏ, rộng chừng 10 cm, không buộc múi, đầu có tua buông thả dài ở bên trái. Giám mục được đeo nhẫn, biểu thị sự gắn bó với Chúa. Thánh giá và nhẫn thường bằng vàng (không được bằng bạc), kiểu cách tùy nghi. Đi giày đen.

Tổng giám mục, trang phục như Giám mục, đầu đội mũ sọ bằng vải màu tím đỏ như màu thắt lưng.

Như tên gọi, Đức Hồng Y mặc áo chùng màu đỏ (kiểu như áo chùng đen), áo choàng ngắn cũng màu đỏ. Trong áo choàng ngắn là một áo bằng ren trắng mỏng dài đến đầu gối, ống tay áo này rộng hơn tay áo chùng chút ít. Ngoài ra, có một mũ bốn múi màu đỏ đội ra ngoài mũ sọ khi làm lễ.

Như những phần trên trình bày, về hình thức trang phục trong Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo, ta thấy thường là giản dị. Áo quần không diêm dúa, cầu kỳ. Màu sắc trang phục nói chung là màu tối. Các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Các học sinh, thày dòng, cha, giám mục... tóc đều cắt ngắn.

Xuất phát từ mục đích, nội dung của từng tôn giáo, hầu hết những người làm tôn giáo đều tự nguyện sống khổ hạnh. Điều này ảnh hưởng rất rõ đến phần ăn mặc của họ.

Điều đáng kể là trang phục trong Phật giáo Việt Nam đã được dân tộc hóa cao độ, đặc biệt là ở phái Bắc tông. Áo cánh cài khuy giữa, áo dài cài khuy cạnh, quần ống rộng của sư nam, sư nữ đều xuất phát từ mẫu áo quần của dân tộc. Kiểu chít khăn của sư nữ cũng là một sáng tạo của Việt Nam. Màu nâu của trang phục các sư Việt Nam cũng là màu của một dân tộc, một đất nước có nhiều củ nâu làm thuốc nhuộm. Trong Thiên Chúa giáo, cũng thường thấy sử dụng chiếc áo dài đen cài khuy cạnh, quần trắng kiểu dân tộc, ở từ học sinh tiểu chủng viện.

Như vậy là kể cả trong tôn giáo, những tôn giáo từ nước ngoài du nhập, trên lĩnh vực trang phục cũng đã được người Việt Nam có ý thức dân tộc hóa để phù hợp với phong tục, tập quán, phù hợp với thực tế khách quan ở Việt Nam, góp phần đem lại cho cả tôn giáo một màu sắc Việt Nam độc đáo.