Trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, tỉnh Tây Nguyên Gia Lai nay đã thêm nhiều dân tộc định cư. Đó là người Kinh (chiếm xấp xỉ 50% dân số), người Tày, Thái, Nùng... ở các tỉnh phía Bắc, tận biên giới vào làm ăn sinh sống. Còn người "bản thổ" lâu đời ở đây gồm 30 dân tộc cùng sinh sống được người Việt ở đồng bằng, ven biển gọi là "người Thượng", "Thượng" có nghĩa là ở trên cao, trên vùng núi, đối lại với miền "xuôi" (thấp) ở đồng bằng ven biển v.v...

Trong đó, người Thượng Bana và Gialai là 2 dân tộc chiếm số đông, xấp xỉ hơn 40% dân số trong tỉnh. Nói chung, các dân tộc Thượng đều có những sắc màu trang trí, nghệ thuật hoa văn cơ bản giống nhau. Cái chi tiết không nhiều, chỉ là thể hiện sự phong phú. Vì vậy, nói đến sắc màu trang trí, nghệ thuật hoa văn của người Thượng người ta cũng thường lưu ý đến loại hình này của người Bana và Giarai là chủ yếu.

Nghề dệt vải người Thượng thường dùng chỉ sợi nhuộm màu rồi dùng đồ dệt bằng gỗ, tre chuyên dùng nhưng tháo rời. Khi làm họ mới dùng nó với sợi chăng lên liên kết lại để thực hiện. Vì thế, dệt vải tạo hoa văn trang trí là một điểm cơ bản nhất tác thành kết quả. Khung dệt của họ không phải là loại cố định như người dân tộc miền núi phía Bắc hay như người Kinh nên không dệt được những tấm vải dài. Nhưng họ có thể dệt các khổ vải rộng có khi đến hơn cả mẻ hay rất hẹp mà khung cửi cố định chưa thực hiện được. Thường tấm vải dệt của người Thượng chỉ dài cỡ 6 mét. Trên cơ sở ấy, người dệt vải (chủ yếu là phụ nữ) thực hiện kết hợp giữa sợi ngang và sợi dọc với tay nghề quen thuộc và tài hoa người dệt tạo nên sản phẩm. Thường thì họ tạo nên những hoa văn cơ bản gồm các đường hình học, kỷ hà, là những đường thẳng song song sắc màu, đường gấp khúc, những hình tam giác, hình vuông v.v... chạy dọc theo tấm vải. Cũng nhiều người tài hoa hơn thì sáng tạo thêm nhiều hình họa dệt phong phú hơn, hình người, chim thú. Vải dệt cho may y phục lễ hội được chú ý tạo dệt hoa văn trang trí sặc sỡ hơn, phong phú hơn, đẹp, bền hơn đồ thường dùng. Ở những mép biên vải hay hai đầu và cuối tấm vải, người dệt vải có khi dùng tay buộc cột sợi chỉ với nhau tạo hoa văn một cách chậm chạp mà chắc chắn, vừa làm đẹp vừa "khóa" mối sợi, chỉ cho tấm vải tốt hơn. Khi tấm vải đã được dệt xong tùy theo các kích cỡ rộng hẹp có chủ định trước, họ cắt can, nối với nhau tạo thành áo vấn quanh người, khố hoặc váy cũng thế. Và các hoa văn trang trí đương nhiên được hình thành chạy dọc tấm vải, hay chảy dọc trên xuống theo chiều vài đóng khố (ở đàn ông). Hoa văn, sắc màu được tạo thành ở đồ dùng "gùi" để mang tải trên lưng cũng được dùng nan tre chuốt vót kết đan thành hoa văn theo kiểu tương tự như dệt vải.

Đáng chú ý là sắc màu của vải sợi dệt kết can thành y phục. Ở đây còn tàng chứa, ẩn tích nhiều bản sắc như là đầu mối cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu hiểu biết đối với các dân tộc Thượng và nhân loại học. Nói chung, sự tồn tại đến nay thì vải dệt hoa văn người Thượng thường lấy màu đen làm nền. Trên đó họ kết sợi lên các màu đỏ, vàng (đa số) rực rỡ ở "gam màu" nóng tương phản rõ nét với nền đen. Cũng có màu trắng nhưng dường như nó xuất hiện đột khởi nhắc nhở sự tiềm ẩn như đã mờ phai theo thời gian năm tháng để phù hợp với hoàn cảnh sống, canh tác, nơi núi rừng. Sắc màu, dệt sợi màu là những tạo hình hoa văn và bố cục rất quen, thành công thức với những đường hình học, kỷ hà nói trên. Màu xanh cũng được họ sử dụng nhưng không choán chiếm lấn át nổi các màu đen, đỏ, vàng rực rỡ (nóng) xuất hiện trên vải là y phục. Có thể những màu này là dạng phát triển, biến thể của nền trắng xa xưa, nay được hoà quyện với màu không gian núi rừng cây xanh xung quanh để lẫn chìm trong nó. Nó không giống như sắc màu, màu nền y phục, vải dệt của một số dân tộc thiểu số phía Nam Cao Nguyên hay ven biển như những dân tộc, Chàm, Châu Ro, người Stiêng (ở đây nền màu trắng vẫn còn tồn tại mạnh, tựa như để hòa lẫn với sóng biển bạc đầu của dân đi biển hay sa mạc từng được biết đến trên thế giới).

Chính vấn đề này để lại cho người nghiên cứu và chúng ta một băn khoăn, hoài niệm nghi vấn, phảng phất những liên tưởng rằng cư dân nơi đây xưa là dân vùng đảo biển Đông, Thái Bình Dương đến lập nghiệp như nhóm ngôn ngữ thể hiện rõ nét của họ là Polynésien - người vùng đảo Nam đảo.

Nói đến Gia Lai với các dân tộc, người "Thượng" (khác với người miền núi thiểu sô ở các tỉnh phía Bắc lại thường được gọi chung là "dân tộc thiểu số" hay "người miền núi" hoặc gọi thẳng tên dân tộc họ như Tày, Thái, Nùng, Mèo, Dao v.v...) Tây Nguyên cũng như người Ba Na, Giarai là nói đến nghệ thuật cồng chiêng nhạc khí, trường ca chuyện cổ sử thi, là văn hóa lễ hội, là nghệ thuật điêu khắc gỗ nhà mồ, là xây dựng nhà ở, là nói đến nghệ thuật trang trí, hoa văn, sắc màu đặc biệt...

Vật, sắc màu hoa văn y phục của các dân tộc người Thượng gợi mở cho ta những nét đẹp bản sắc đã đành mà còn làm cho ta có liên tưởng mơ hồ một cội nguồn xuất xứ các dân tộc nói chung mạn ven biển, Cao Nguyên, Tây Nguyên, Trung bộ và cả Nam bộ là những người cùng liên đới với nhiều chủng tộc, là nhận thức dự cảm trong nghiên cứu mà đến nay vẫn còn bị bác bỏ rằng họ là những người "miền biển" dọc duyên hải Đông Nam Á lục địa và hải đảo Thái Bình Dương. Xưa nay chia tẻ thành nhiều ngành, nhánh tỏa ra khắp vùng mà di tồn đến ngày nay.

Ngoài tính nghệ thuật đặc sắc, những quan niệm (gu-gotit) thẩm mỹ thán phục. Về sắc màu hoa văn nghệ thuật trang trí, nó còn gợi mở những ý niệm nghiên cứu còn tiếp tục được xác định kia. Về cội nguồn nhân sinh trong toàn khu vực Đông Nam Á xa xưa, nó còn là tài liệu quý để hiểu biết càng rõ hơn cội nguồn nhân loại, văn hóa - phát triển trong đất trời nhân sinh - vũ trụ - vạn vật muôn thuở...