Các thay đổi

Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Triệu Quang Phục

bớt 1.006 byte 18:48, ngày 11 tháng 4 năm 2020
không có tóm lược sửa đổi
<poem>Triệu Quang Phục là người kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế. Ông là người huyện Chu Diên, là con của Triệu Túc, một thủ lĩnh địa phương có lòng yêu nước không chịu khuất phục nhà Lương. Triệu Quang Phục nổi tiếng giỏi võ nghệ. Sử chép ông là người "uy hùng sức mạnh".
Cha con ông là người đầu tiên đem quân tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Triệu Túc là một danh tướng của nước Vạn Xuân, được phong làm Thái Phó trông coi việc binh, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở vùng ven biển. Triệu Quang Phục lúc đầu theo cha đi đánh giặc, có công. Là một tướng trẻ có tài nên được Lý Nam Đế tin dùng làm tả tướng quân.(549-571)
Đầu năm 545, quân Lương xâm lược Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà Tiền Lý thất bại. Khi được Lý Nam Đế phải lẩn tránh ở động Khuất Lão thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay và giao trao toàn bộ binh quyền cho , Triệu Quang Phụcngười huyện Châu Diên (Hải Hưng) thấy rõ lúc đó giặc còn mạnh, không thể đánh thắng ngay được nên đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng tìm cách đánh giặc. Vốn thông thuộc miền sông nước Chu Diên, ông đưa quân về Dạ Trạch (Bãi Màn Trò, Hải Hưng) một vùng đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất khô ráo có thể ở được. Đường vào bãi rất khó khăn, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, chống sào lướt nhẹ trên đám cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ mới tới được đại bản doanh của nghĩa quân.
Vốn thông thuộc vùng sông nước Chu DiênNgay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục quyết định chuyển hướng đã nghĩ đến việc tự túc lương thực để kháng chiến lượclâu dài. Ông chia quân ra làm nhiều tóan: tóan chặt cây làm trại, tóanh chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, tóan chuyên bắt cá, thay đổi phương thức tác chiến cũ là phòng ngựtoán đi săn chim, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địchvịt trời để nuôi quân. Ông đưa hơn một vạn Lương thực thiếu, Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân từ miền núi về đồng bằngăn củ súng, khoai dại, lập để dành thóc gieo mạ. Khi doanh trại đã căn cứ kháng chiến ở Dạ Trạch (bãi Màn Tròbản xây dựng xongcũng là lúc tướng giặc là Trần Bá Tiên đánh hơi được, Khoái Châuđem quân trùng trùng, Hưng Yên)điệp điệp đến bủa vây.Nhìn đầm rộng chỉ có lau sậy, tướng giặc đắc ý nói với tả hưũ:
Số phận quân Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm. ở giữa là một bãi phù sa rộng, có thể làm ăn sinh sống được. Đường vào bãi rất kín đáo, khó khăn. Chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt trên cỏ nước theo mấy con lạch nhỏ thì mới tới đã đượcđịnh liệu...Triệu Quang Phục đóng Một vạn quân ở bãi đất nổi ấyăn chen chúc trong đầm tất sẽ chết vì đói. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh lương; ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như Ta chỉ cần vây mà không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra cần đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực, "làm kế trì cửu" (cầm cự lâu dài) người trong nước gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương (vua Đầm Đêm). Nghe tin Lý Nam Đế mất, ông xưng là Triệu Việt Vương.
Vùng đồng bằng này tuy không có thế đất hiểm như miền đồi núi nhưng có nhiều sông lạch Trần Bá Tiên chia quân lập thành một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm cắtđứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn không thể ngờ được, nhiều đầm hồ lầy lộibên trong vòng vây, Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung giặc, không lợi mặt khác cho đắp bờ, khoanh bãi, tôn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế, vị tướng tài còn nhằm trước khu đất cao ở gần sông Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất cả những công việc này đều được tiến hành binh của những đạo quân lớntrong điều kiện thiếu thốn nông cụ và sức kéo. Địa thế như vậy buộc địch phải phân tántrong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục lúc cầm cày, chia khi cùng nghĩa quân đánh nhỏthi nhau dùngdùng đòn kéo thay trâu, làm mất sở trường của chúngkhông phân biệt trên dưới, đồng thời tạo điều kiện cho ta tiêu diệt gọn từng bộ phận nhỏnên không khí phấn khởi trong sản xuất. Vì vậy sau những ngày thiếu thốn, tiêu hao sinh lực địch. Đồng bằng nghĩa quân chẳng những có đủ lương ăn mà còn là nơi đông dân cư, nơi nhiều sức ngườithóc để dành, đủ sức của, cung cấp cho cuộc chiến đấu quần nhau với giặc lâu dài của . Theo lệnh Quang Phục: " Lúa quý như mệnh người", nghĩa quân tavừa đánh giặc vừa thay nhau tiếp tục sãn xuất.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt NamBao vây lâu ngày không thấy nghĩa quân chết đói, từ Lý Nam Đế qua Triệu Việt Vương đã có sự chuyển hướng chiến lược, thay đổi địa bàn và cách ngược lại các đồn giặc liên tiếp bị đánh. Lập căn cứ kháng chiến ở đồng bằng, đó là kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng suốt của Triệu Quang Phụclương thực bị cướp nên chính giặc lâm vào tình trạng thiếu thóc gạo trầm trọng. Đưa quân xuống đồng bằng, Triệu Quang Phục không áp dụng phương thức tác chiến phòng ngựGiặc càng khó khăn, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Kế sách của ông nói theo ngôn ngữ đêm đêm nghĩa quân sự hiện đại, là đánh lâu dài và đánh tiêu hao, đánh kỳ lập làm phương thức tác chiến chủ yếucàng mạnh.
Nhờ sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt đó mà cục diện chiến tranh thay đổi ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địchSau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Quân Lương cố sức đánh vào vùng Dân gian gọi ông là Dạ TrạchVương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhân nhà Lương có loạn to, nhằm phá vỡ đầu não kháng chiếnthế giặc suy yếu, nhưng âm mưu đó không thực hiện được. Quân của Triệu Quang Phục giữ vững Việt Vươngtừ căn cứ Dạ Trạch, liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của địch. Qua gần 4 năm biết rõ gan ruột giặc, xuất toàn quân giao chiến tranh (547-550) cuộc kháng chiến ngày càng lớn mạnh, địch càng đánh càng suy yếugiết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đô, khôi phục lại nền độc lập dân nước.
Viên tướng giỏi của địch là Trần Bá Tiên Như trên đã trở nói, khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Châu Quảng từ năm 547, làm Thái thú Cao YênKhuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân. Năm 548Bị quân Lương truy đuổi, bên triều Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh (548-552). Viên hàng tướng này đã cướp kinh sưLý Thiên Bảo, số đông quý tộc nhà Lương bị giết chếtLý Phật Tử phải chay sang Lào, bọn cường hào địa phương nổi dậy khắp nơi. đến đóng phía bắcđộng Dã Năng, triều Tây Ngụy, từ lưu vực sông Vị, tổ chức một loạt các cuộc tiến công đế chế của Lương, năm 553 chiếm Tứ Xuyên, cắt đứt quan hệ giữa Nam Kinh và Trung á, chiếm Trương Dương xưng là Đào Lang Vương. Năm ất hợi (Hồ Bắc55)là năm thứ 7 của đời Triệu Việt Vương, xâm nhập tới Giang Lăng trung lưu Trường GiangLý Thiên Bảo mất, lập nên triều Hậu Lương bù nhìn (bị xóa năm 587). Quan tướng các châu - trong đó không Trần Bá Tiên - kéo quân đổ con, binh quyền về kinh sư với danh nghĩa "cứu viện kinh sư" dẹp loạn Hầu Cảnh, rồi nội chiến liên miêntay Lý Phật Tử.
Chớp thời cơ đóĐến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi nhà Lý. Nhưng đánh không thắng, Phật Tử xin chia đất giảng hòa. Triệu Quang PhụcViệt Vương nghĩ tình họ Lý , từ căn cứ Dạ Trạchcũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử. Phật Tử đóng ở Ô Diên (làng Đại Mỗ, đã tung quân ra mở một loạt cuộc tiến công lớn vào quân giặc giết tướng giặc là Dương Sàn thu lại châu thành Từ Liêm) Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, đuổi giặc ngoại xâmlấy bãi Quần Thần (làng Thượng Cát, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nướcTừ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương còn gã con gái là Cải Nươngcho Nhã Lang con Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn tính. Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành động.
Về sau, vì tin lời cầu hòa của Lý Phật Tử Năm Tân Mão (vốn là tướng của Lý Nam Đế, từng nổi dậy chống ông571), ông chia cho y một phần đất và kết mối thông gia: con trai Lý (Nhã Lang) lấy con gái Triệu (Cảo Nương). Năm 571, Lý Phật Tử phản bội trắc, bất ngờ đem quân đi đánh úp, Triệu Việt Vương. Vì không phòng bị Triệu Việt Vương thua, chạy đến cửa bể biển Đại Nha, cùng đường gieo mình xuống biển tự vẫn.Theo Việt điện u linh, cuốn sách xưa nhất (1329) chép về Triệu Quang Phục thì sau khi ông mất, người đời thấy linh dị, lập miếu thờ ở cửa biển Đại Nha. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285, đời Trần Nhân Tông) sách phong là Minh Đạo Hoàng đế. Năm Trung Hưng thứ tư (1288, đời Trần Nhân Tông) ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Hưng Long thứ 21 (1313, đời Trần Anh Tông) ban thêm bốn chữ "Thánh liệt thần vũ".</poem>
Dân đã lập miếu thờ tại nơi ông mất. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), vua Trần Nhân Tông sách phong Minh Đạo Hoàng Đế. Năm Trùng Thông thứ tư, vua ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tông, vua ban thêm bốn chữ: "Thánh Liệt Thần Vũ". [[Thể_loại:Văn_chương_Việt_Nam]][[Thể_loại:Danh_nhân_Việt_NamTruyện_cười_dân_gian]]
Người dùng vô danh

Trình đơn chuyển hướng