Các thay đổi

Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Lý Thường Kiệt

bớt 3.514 byte 18:49, ngày 11 tháng 4 năm 2020
n
Đã nhập 1 phiên bản
<poem>Ông vốn họ Ngô, tên là Tuấn, người  Năm 1019 tại căn nhà của một võ quan làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm - Hà Nội)phường Thái Hoà, con trai đầu lòng của Sùng Tiết Tướng ông Ngô An Ngữ. Về sau, ông theo gia đình sang ngụ ở phường Thái Hòa (Hà Nội).Bình sinh và bà họ Hàn ra đời đặt tên người khôi ngô tuấn tú, thông minh, nhanh nhẹn. Người có chí khí, thích nghề võNgô Tuấn.
Hàng ngàyNăm Thiên Thành đời Lý Thái Tông, Ngô Tuấn thường luyện cung kiếm bày trận đồông An Ngữ được cử đi tuần vùng phía nam Thanh Hoá, đêm chong đèn đọc binh pháp. Ông chóng thành tài và liên tiếp được thăng chứcít lâu sau bị lâm bệng qua đời.
Chồng của cô ruột là Tạ Ðức đem ông về nuôi dậy văn võ. Năm 20 18 tuổimẹ mất (1036), Ngô Tuấn cùng em lo đủ tang lễ mai táng. Hết tang, ông được đưa vào làm hoạn quan trong cung vua, 22 tuổi giữ bổ chức "Hoàng môn chi hậu" trong quân túc vệkỵ mã hiệu uý... Khi Do tính siêng năng, cần mẫn lại hết lòng trung thành, càng được vua Lý Thánh Tông tin yêu thăng thưởng dẫn lên ngôi, Ngô Tuấn được rời khỏi những đến chức vụ trong nội cung Ðô Tri đưa ra giúp việc nhà vua tại triều đình. Ông được phong đổi sang họ Vua gọi Thái bảo, cầm "tiết việt", đi thanh tra các quan ở vùng Thanh - NghệLý Thường Kiệt.
Năm 1069 Thánh Tông đi đánh Champa để yên mặt phía nam. Ông 1061, ông được Vua cử làm tướng tiên phongvào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở, lập công lớnông đã vỗ về nhân dân chăm lo sản xuất, vua phong Phụ quốc Thái úykhai khẩn đất hoang làm cho nhân dân no ấm, tước Khai quốc công và ban cho họ Lý (do đó có tên Lý Thường Kiệt)biên cương được bảo vệ vững vàng.
Lúc bấy giờ ở Trung HoaNăm 1075, nhà Nhà Tống gặp nhiều rối ren, Tể tướng do Vương An Thạch đưa ra nhiều cải cách nhưng không có kết quả. Vua tôi nhà Tống mong tìm lối thoát bằng cách xâm lược Đại Việt. Khi nhà Tống làm Tể tướng âm mưu chuẩn bị xâm lược nước Việtta, lúc hội đàm Thái uý Lý Thường Liệt tâu với các đại thần, ông là người đầu tiên trong lịch sử dân tộc dám đề ra: Thái hậu ý Lan rằng "Ngồi yên đợi giặc sao , không bằng đưa quân ra trước ", Thái Hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Ðản đem quân sang đánh trước để chặn phá các mũi nhọn căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của giặc". Đó là cơ sở của chiến lược "Tiên phát chế nhân" Nhà Tống ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (ra tay trướcQuảng Ðông, chế ngự địchQuảng Tây). Ông nhìn xa trông rộng, lập lại khối đoàn kết trong triều, đề nghị Linh Nhân Thái hậu cho gọi Lý Đạo Thành rồi chủ động rút quân về trao chức Thái phó, cùng bàn việc giữ nước. Bên trong giữ yên nội trị chuẩn bị kháng chiến Lập phòng tuyến chống ngoại banggiặc Tống xâm lược ở bờ nam sông Cầu.
Năm 1075 ông đem Ðầu năm 1077 Quách Quỳ và Triệu Triệu Tiết dẫn hơn 10 vạn quân chia làm hai đạo đánh sang đất nhà Tống. Đạo quân thứ nhất do phó tướng Tôn Đản chỉ huy, gồm quân của các vùng dân tộc do Thân Cảnh Phúc, Vi Thư An, Hoàng Kim Mãn... dẫn đầu, đánh thẳng tiến vào thành Ung Châu (Nam Ninh - Trung Quốc) theo đường bộ. Đạo quân thứ hai do ông trực tiếp chỉ huyxâm lược nước ta, theo đường biển đổ bộ vào Châu Khâm, Châu Liêm (Quảng Đông). Vào đất Tống, ông viết "Phạt Tống lộ bố văn" nói rõ lý do cuộc hành quân của mình là đập tan sự chuẩn bị xâm lược của nhà Tống bị quân giúp nhân dân Hoa Nam thoát khỏi cảnh lầm than do Vương An Thạch cùng triều đình nhà Tống gây ra. Ông cũng ra lệnh cho quân không được động tới "cái kim sợi chỉ" của dân. Nhờ đó, quân ông đi đến đâu, quân Tống bị đánh tan đến đấy. Nhân dân Hoa Nam gọi ông là "cha họ Lý". Quân Việt tiến vào thành Ung Châu và sau một thời gian vây hãm đã hạ được thành. Thấy cuộc hành quân đã đạt kết quả, ông hạ lệnh rút quân về, chuẩn bị chống giặcta chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng.
Năm 1077, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn sang Việt Nam ta. Ông cho lập Chính trên phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn giặc rồi cho thủy quân đánh bại giặc ở vùng biển Quảng Ninh. Quân bộ của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt bị chặn đứng. Nhiều trận chiến đấu quyết liệt xảy ra. Giặc Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt đã cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang ra đời bài thơ, sau này được coi như "Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên" của Việt Nam:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư"(Sông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh tơi bời).Nhờ thế tinh thần binh sĩ thêm hăng hái.
Thời cơ đến, ông tổ chức một trận quyết chiến, vượt sông đánh vào trại của giặc. Hơn một nửa số quân giặc bị tiêu diệt. Tiếp đó, ông cho người sang nghị hòa, mở đường thoát cho giặc: Quách Quỳ đồng ý và vội vã rút quân về. Quân Việt bám sát giặc và chiếm lại những vùng đất đã mất. Sau chiến thắng, Lý Thường Kiệt lo việc nội trị, tu bổ đê điều, đường sá, sửa đổi bộ máy hành chính trong cả nước. Vua Lý nhận ông làm em nuôi và cử ông trông coi châu ái.Những năm cuối đời, ông còn cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (1103), dẹp giặc Chiêm quấy nhiễu ở Bố Chính (1104), tổ chức lại bộ máy quân đội, duyệt đổi các đơn vị từ cấm binh đến dân binhTiệt nhiên định phận tạI thiên thư.
Với công lao hiển hách của mình, Lý Thường Kiệt từng được cả triều đình nhà Lý quý trọng. Ngay lúc ông còn sống, Lý Nhân Tông đã cho làm bài hát để tán dương công trạng. Ông được lịch sử ghi nhận là anh hùng kiệt xuất, một con người hiến dâng cả tâm hồn sức lực cho sự nghiệp độc lập của Tổ quốc ở buổi đầu thời tự chủ. Tài năng quân sự kiệt xuất của ông làm kẻ thù khiếp phục.Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Theo Lê Quý Đôn, chính sử Tống phải thừa nhận: binh pháp "đánh đâu thắng đấy" của nhà Lý đã được Sái Diên Khánh nhà Tống mô phỏng và được Tống Thần Tông "cho là phải".</poem>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Ðấy chính là "Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc ta. Quân Tống phải rút chạy về nước, bờ cõi nuớc ta lại vững bền.  Lý Thường Kiệt đã có công đánh thắng nhà Tống, lại có công bình Chiêm. Tháng 6 năm ất Dậu (1105), Ðôn Quốc Thái uý Lý Thường Kiệt mất, thọ 87 tuổi, nhà Vua truy tặng chức; nhập nội điện đô tri hiển hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công. [[Thể_loại:Danh_nhân_Việt_Nam]]

Trình đơn chuyển hướng