Các thay đổi

Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Giai đoạn mở đầu của chữ quốc ngữ

thêm 2.435 byte 03:47, ngày 28 tháng 3 năm 2020
không có tóm lược sửa đổi
Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa), Cacham, Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông sãi), Ungue, Ungué (ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh), Banco, Bancô, Bancò (Bàn Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải Nam), Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa), Quignhin (Qui Nhơn), Bafu (Bà Phủ/tức vợ quan phủ)... - những địa danh, những danh từ Việt được Latin hóa tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận thấy là các từ luôn được viết liền, hầu hết không có dấu thanh, thi thoảng các dấu thanh huyền, sắc, ngã, ô được sử dụng.
 
'''Bắt đầu viết rời các từ'''
 
Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này, việc viết rời các từ đã lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc Chiu (sách chữ); Da, an, nua (đã ăn nửa), Da, an, het (đã ăn hết) - nói về hiện tượng nguyện thực; scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt, Dàdèn Lùt (đã đến lụt), Tuijciam, Biet (tui/tôi chẳng biết), Onsaij di Lay (ông sãi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon bau dau christiam chiam (muốn vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C. Borri viết trong bản tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong (1621-1622) đệ lên đức giáo hoàng Urbanô VII là những bước tiến quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ, bởi đây là bước khởi đầu việc viết rời các từ.
 
Từ tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648) trong các bản văn và sách của mình, giáo sĩ Đắc Lộ đã viết rời các từ và nhóm từ Việt, phần lớn vẫn chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng viết liền các từ về địa danh, nhân danh cũng như đánh dấu thanh cho một vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh Hi Lạp (huyền, sắc, ngã) vào để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ “đ” vào bộ mẫu tự Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral (người Bồ Đào Nha).
 
Đàng tlaõ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài), Đàng tlên (Đàng Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà huyện), oũ Khỏũ (ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo (tế kỳ đạo), chuá tũ, chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng, chúa Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), Thíc ca (Thích Ca), chợ thũi (chợ Thủy), Sãy (sãi/sư sãi), thầy (thầy/thầy giảng), đôủ thành (Đông Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những từ được linh mục Đỗ Quang Chính trích từ các tường trình về hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào những năm 1632, 1637 cho thấy vị giáo sĩ này đã đưa việc chế tác chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ trong thời gian rất ngắn.
 
HUỲNH VĂN MỸ
[[Thể_loại:Ngôn_ngữ_Việt_Nam]]
[[Thể_loại:Chữ_Quốc_ngữ]]

Trình đơn chuyển hướng