Dữ liệu văn hóa Việt Nam

Hồ sơ

Các thay đổi

Áo dài Việt Nam

bớt 19.470 byte 15:48, ngày 12 tháng 4 năm 2020
không có tóm lược sửa đổi
Áo dài truyền thống Việt Nam   <poemp>“Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Ðó là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà Cũng không ngạc nhiên khi một người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và nhưng ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc. Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc trả lời rằng tà áo dài quả đã ghi lại rất nhiều nét đan thanh không Dài là một trong những qua ca dao tục ngữ hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó còn qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội, chiếc dịch từ "áo dài Việt Nam đầu tiên với hai Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì không ở đâu có một tà áo thướt tha bay lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, Dài như trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước. [[File:Congdongviet_net_-200330-105539.PNG]] Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ - một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện - rồi ngót một thế kỷ dưới ách </p> <p>Áo Dài, trang phục truyền thống trị của Pháp - quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế - tà áo dài phụ nữ Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnhôm sát cơ thể, có cổ cao khiếu thẩm mỹ của người Việtdài khoảng ngang gốiDưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đã bao phen bị người Tàu Nó được xẻ ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và váy. Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lạiở hông. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn Dài vừa quyến rũ lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánhvừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn không làm giảm biểu lộ đường nét đẹp của một người thiếu nữ. [[File:Congdongviet_net_-200330-105557</p> <p>Nhìn lại chiều dài lịch sử đất nước, tà áo Dài là một sáng tạo nghệ thuật mới.PNG]] Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan Nó thay thế trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô tả rõ rệt qua bài ca dao Mười Thương: Một thương tóc bỏ đuôi gàHai thương ăn nói mặn phục cổ truyền có duyênBa thương má lúm đồng tiềnBốn thương răng nhánh hạt huyền kém thuaNăm thương cổ yếm đeo bùaSáu thương nón thương quai tua dịu dàngBẩy thương nết ở đoan trangTám thương ăn nói lại càng thêm xinhChín thương cô ở một mìnhMười thương con mắt hữu tình với ai? Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong sắc và kiểu dáng phải tuân theo những dịp hội hè đình đám cưới đòi hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào lễ nghi phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong giónhững tầng lớp xã hội. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo chuỗi hạt Mầu vàng, chân mang giày dừa, dép congchỉ dành cho những ông vua và họ được mặc áo Long bàoBộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ Mầu trắng là mầu tang còn xuất hiện trong cung điện hoặc mầu xanh dành cho các vị quan trong những nhà quyền quýdịp trang trọng. Ðến Trước nữa, đầu thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần18, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, Việt Nam mặc kiểu áo xường xám không cóváy dài... quần! Trong thời gian đóVào năm 1744, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở viên quan Vũ Vương cai trị phía Bắc miền Trung Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời của triều Nguyễn yêu cầu thay đổi trang phục Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến trên cơ sở kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơnTrung HoaÁo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của Bộ quần áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt hai thân nối sống tượng trưng nút thay thế cho tứ thân phụ mẫu, váy vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áoxẻ ngực thắt dây. Vạt con nối với Vua Minh Mạng, vị vua thứ hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của người triều Nguyễn ban hành sắc lệnh cấm phụ nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn gói ghém nhân sinh quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi ngườimặc váy</p> <p>Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam.Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Một kiểu thời trang mới đưa ra bao giờ cũng xuất Dài được phát hiện từ thành thị và phải mất cả chục năm - nếu không bị đào thải - mới được phổ biến sâu rộng về thôn quê. Do đó, có thể nói rằng bộ thời Pháp thuộc khi một phụ nữ Việt Nam tên Tường thay đổi chiếc áo ngũ tứ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn Phúc. Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo dài thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Và 163 năm sau khi vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà mặc váy, thì vào năm Minh Mạng thứ 9 tức là năm 1828, triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian câu ca dao than vãn: Chiếu Vua mồng sáu tháng baCấm quần không đáy, người ta hãi hùng!Không đi thì chợ không đôngMà đi thì... lột quần chồng sao đang!Có quần ra đứng bán hàngKhông quần đứng nấp đầu làng trông quan!Trước sự than vãn và chống đối của giới nữ, phe đàn ông con trai an ủi vỗ về:Trúc xinh trúc mọc ngoài sânEm xinh thì váy hay quần vẫn xinh! Từ bốn mảnh) thành chiếc áo ngũ thân, vạt con nấp sau vạt trước được cắt ngắn bớt cho gọn, và đó là hình dáng hai tà đầu tiên. Người Pháp gọi chiếc áo dài Việt Nam, còn giữ lại cho đến bây giờ. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, là Le Mur những cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức nghĩa nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc áo "the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên wall" trongAnh ngữ. Các kiểu trang sức thì đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn... Tóc vẫn còn để dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn khăn nhung, trời lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. </p> <p>Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng. Tuy nhiênđó, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục. Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt lại Dài đã được biểu lộ qua chiếc áo dài. Việt Nam thoát ách đô hộ của người Tàu không bao lâu thì lại rơi vào tay người Pháp. Khi văn hóa Lang-sa tràn vào nước ta thì chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nôm và Hán, và cách ăn lối ở của ta cũng lần lần thay đổi và cố nhiên áo quần cũng chịu ảnh hưởngkhá sâu sắcMột nhân vật có tên là Cát Tường -có người cho biết đó là một họa sĩ tên là Nguyễn Cát Tường- tung ra Hai kiểu áo dài mới mệnh danh áo Lemur. Chữ Lemur viết trại theo danh từ Pháp le mur có nghĩa là cái tường viết trại tên họa sĩ Cát Tường. Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cổ xúy cải cách xã hội, và Dài được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất ưa chuộng tại Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng, kiểu cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan” mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi lỏng, rẽ ngôi lệch. Hồi đó, ngay tại thủ đô Huế nơi có triều đình Việt Nam và Tòa Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời a dua mặc ”mốt” Lemur, và dân Huế có bài vè như sau: Vè vẻ vè veNghe vè ”mốt” áoBận áo lơ-muyaÐi giày cao gótXách bóp-tờ-phơiChe dù cánh dơiÐi chơi Cụ NgáoĂn cháo không tiềnCổi tay raglar (tay liền lơ-muya! Tại Hà Nội, cây bút châm biếm thời đại Tú Mỡ cũng có bài nhại Mười Thương về áo tân thời như sau: Một thương tóc lệch đường ngôiHai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”Ba thương hôm sớm điểm trangBốn thương răng mọc hai hàng trắng phauNăm thương lược Huế cài đầuSáu thương ô lụa ngả màu thanh thiênBảy thương lắm bạc nhiều tiềnTám thương động tý ”nữ quyền” giở raChín thương cô vẫn ở nhàMười thương... thôi để mình ta thương mình! Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời: Một yêu mặt trắng má trònHai yêu môi mọng thoa son điểm hồngBa yêu mắt sáng mày congBốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Năm yêu mảnh áo ngắn tàSáu yêu quần trắng là đà gót senBảy yêu vóc liễu dịu mềmTám yêu giọng nói vừa hiền vừa vuiChín yêu học thức hơn ngườiMười yêu, yêu cả đức tài hình dong! Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà thủ cựu đã không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà đã xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường phố Hà Nội. Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện ) chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay, không puff (tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn)Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu đanNgoài ra, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung hòa được mới nối liền với cũ để tôn vinh phần thân qua những nét đẹp của người nữ và tìm được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ. Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ đường chỉ nối quanh cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ Ngoài hai kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc ống túm. Cho đến cuối thập niên 50, áo dài Việt Nam theo dòng lịch sử thay đổi từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuânnêu trên, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển Lãm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu xuất hiện với nhiều kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo khác như kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim... Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp nơi. Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xẩy ra để bầy tỏ chống chữ V thích hợp với những người tương đối. Chiếc áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơnđầy đặn, với kiểu áo dài cổ cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà vai phồng cho những thiếu nữ mảnh mai mộtÐầu thập niên 60, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một kiểu Chất liệu mới: Áo dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu cho áo cập nhật này giúp xóa bớt Dài được kết hợp từ những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp tay xéo vaitấm vải mẫu, nên thân hình người nữ thường được ôm gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ.Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini-raglan tay ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi-raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng lụa. Nhiều người còn cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu. Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”.Cuối thập niên 60, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may trí bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả áinhững đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ. Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân </p> <p>Tà áo may bằng hàng dày, nhưng phía ngực và tay ráp bằng hàng ren Dài không thể gia công hoặc bán hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai tay, có khi là hai mầu tương phản loạt như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may bằng hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn nhắc nhở đến ngày xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của mình. Nữ sinh Việt Nam trước 75 đến trường đều thường là ”áo trắng học trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Ðồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương qua thơ nhạc. Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân chủ, kể từ thời Ðệ nhất Cộng hòa (tháng 7-1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục loại quần áo dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàngsẵn khác. Ý hẳn đó Mỗi mảnh được tạo ra ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên ngôi hoàng hậu trong cuộc đời công trình nghệ thuật của chàng vậyngười thợ thủ côngTừ cuối thập niên 60, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa lá cành để Những thợ may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu Dài thường phải từ chối đơn đặt hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn trước 75 là nhà may Thanh Khánh - nay mở tại Paris, Pháp - nhà may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur - nay mở tại đường Brookhurst, Garden Grove, California, Hoa Kỳdịp năm mớiNhư trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc. Khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam vào cuối tháng Tư, 1975, chiếc áo dài cũng theo những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong Đôi khi chính sách đàn áp và nền kinh tế kiệt quệ trong nước đã đẩy lui chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn kín trong đáy tủ và người ta nhận làm chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc.Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng niu bảo trọng hơn bao 24 giờ. Ở đâu có người Việt tỵ nạn là ở đó có áo dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp với trình độ thẩm mỹ khá caogiá gấp đôiTrong số những nhà sáng chế kiểu áo</p> <p>Bà James Sterson, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ một sứ giả Mỹ đã nói rằng: Không một đất nước nào có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệptrang phục dân tộc vừa đẹp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Ðặc biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai truyền thống mà lại có chiều sâu văn hóa như tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Dài Việt Nam. Hiện </p> <p>Ngày nay phong trào , áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái Dài xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai.Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ hiện khắp nơi trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginiathế giới... Người viết bài này vì yêu áo dài Những phụ nữ Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh Kiều biểu lộ tình cảm với quê hương qua hoa lá cành mây chiếc áo Dài. Nhiều du khách nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến ngoài đã có những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua ấn tượng rất tốt về tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc. Những chiếc áo dài Dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ. Áo dài Việt Nam không Họ cảm thấy được tiếp đón rất nồng hậu khi những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù tà áo Dài bay bay trước gió bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lậpphi trườngÁo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Thật tiếc cho những ai đến Việt Nam. Chính vì vậy người Việt vẫn yêu quý tà không mang về một chiếc áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc. Tài liệu tham khảo: ”Phan Kế Bính, Dài làm kỷ niệm và để khoe với những ai chưa từng đến Việt Nam Phong Tục, Phong Trào Văn Hóa.“Trần Trọng Kim, Tà áo Dài xứng đáng với mệnh danh "Nét duyên dáng Việt Nam Sử Lược, Ðại Nam.“Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, Xuân Thu.“Nhất Thanh, Ðất Lề Quê Thói, Sống Mới.“Nguyễn Khắc Ngữ, Những Hình Ảnh Xưa, Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa.“P". Huard và M. Durand, Connaissance du Vietnam, E.F.E.O.“W. Robert Moore và Maynard Williams, Portrait of Indochina, The National Geographic Magazine </poemp> [[Thể_loại:Trang_phục_Việt_Nam]]
Người dùng vô danh