Dữ liệu văn hóa Việt Nam

Hồ sơ

Các thay đổi

Trần Thái Tông

thêm 4.523 byte 18:48, ngày 11 tháng 4 năm 2020
không có tóm lược sửa đổi
<poem>Trần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày 17-7-1218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi.
Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều Lý từng giữ chức Nội thị khán thủ (đứng đầu các quan hầu cận vua Lý trong cung1225 - 1258). Nhờ có Trần Thủ Độ là chú họ khi ấy làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh thường xuyên được ra vào cung, sau lấy Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh và vương triều Trần được thành lập từ đấy.
Lên làm vuaNhờ Trần Thủ Độ thu xếp, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh đổi niên hiệu tức Kiến Trung; vua Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Trần Thái Tông được 12 năm 1232, đổi tức Thiên ứng Chính bình; năm 125119 tuổi mà chưa có con, lại đổi là Nguyên Phong và niên hiệu Nguyên Phong đã đi vào lịch sử như cái mốc lớn ghi chiến công đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông hồi thế kỷ 13 mà thơ khi triều Trần cần kíp phải có hoàng tử. Bởi vậy, Trần Nhân Thủ Độ bắt vua Thái Tông ca ngợi:Bạch đầu bỏ Chiêu Thánh, giáng xuống làm công chúa rồi đem người chị của Chiêu Thánh, vợ của Trần Liễu , đang có thai vào làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân sĩ tạilàm loạn. Vua Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân,Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.núi Yên Tử (Lính bạc đầu còn đó,Kể mãi chuyện Nguyên PhongQuảng Ninh)tỏ ý phản đối. Trần Thủ Độ đem quần thần tới đón về.Thái Tông từ chối, nói rằng:
Ngày 17-1-1258Trẫm còn nhỏ dại, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạckhông kham nổi việc to lớn, Việt Trì, Phú Thọ)các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển, Trần Thái Tông chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư tảThủ Độ ngoảnh lại nói với các quan: "Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn"...
Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (sau thượng ở đâu vua Trần Thánh Tông) đã phá tan quân Nguyên triều đình Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nướcđấy.
Nhưng tên tuổi Trần Nói đoạn truyền lệnh xây cung điện điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Thái Tông được sử sách lưu truyền còn vì ông là một nhà Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo và một tính cách khá lạ lùng, tác giả sách Khóa hư lục, một tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học Thiền của thời Trầntriều. Thái Tông bất đắc dĩ theo xa giá về kinh.
Khóa hư lục nghĩa là ghi chép về phép tu dưỡng đạo hư tịch. Được ít lâu Trần Thái Tông viết sách này vào quãng từ năm 1258 đến trước lúc mất (1277)Liễu biết không địch nổi, tức là sau khi ông đã nhường ngôi cho Lê Thánh Tông rồi vào núi tu hànhđang đêm làm người đánh cá lên thuyền ngự xin hàng. Xét về niên đại, Khóa hư lục là cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ Việt NamHai anh em ôm nhau mà khóc. Xét về nội dungThủ Độ hay tin, Khóa hư lục vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn học, bởi tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Thái Tông mượn để biểu đạt tư tưởnglấy thân che cho anh, cảm xúc của mình là hình thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngônxin Thủ Độ tha cho Trần Liễu... Tất cả đều giàu hình tượngTrần Thủ Dộ quẳng gươm xuống, giàu chất trữ tình.nói:
Trong một văn bản Khóa hư lục có bài Tựa Thiền tông chỉ nam của Trần Thái Tông viết, ông đã kể lại sự việc năm 1236 đang đêm ông bỏ cung điện vào núi, định ở đó tu hành, nhưng Trần Thủ Độ đến nơi, cương quyết mời ông trở lại ngôi vua, và câu chuyện này gắn liền với tiểu sử đời ông, với đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời Trần: "Năm thứ 5, niên hiệu Thiên ứng Chính bình, đúng đêm mồng ba tháng tư năm Bính Thân (1236), nhân vi hành ra cửa cung, bảo người tả hữu rằng: Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân, xem ý dân tình như thế nào.Ta là con chó săn thôi.Chưa biết anh em bay ai thuận ai nghịch.
Giờ hợi đêm ấy, một ngựa lẻn ra, qua sông mà đi về phía Đông... Giờ mão ngày hôm sau thì đến bến đò Phả Lại sông Đại Than, sợ người ta biết, lấy vạt áo che mặt qua sông... Gập ghềnh, núi thẳm khe sâu, ngựa mỏi không tiến được, trẫm bỏ ngựa leo dốc mà đi, giờ mùi tới đầu núi Yên Tử. Sớm mai lên thẳng đỉnh núi, thăm quốc sư Trúc Lâm đạo sa môn... Bấy giờ Thúc phụ Vua Thái Tông tha cho Trần Công (tức Thủ Độ)... nghe tin trẫm bỏ điLiễu, sai tả, hữu tìm kiếm khắp nơi, bèn cùng với các vị quốc lão tìm đến núi này. Gặp trẫm, Thái sư nói thống thiết rằng: "Bệ hạ vì mục đích tu cắt cho riêng mình mà đất An Sinh làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lời nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình thái ấp và phong cho làm người dẫn đạo cho thiên hạ?"... Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi..."An Sinh vương.
Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề "quốc gia xã tắc" ra và giải quyết theo hướng đặt "quốc gia xã tắc" lên trên hết, trước hết như thế. ở Việt Nam, "quốc gia xã tắc" bao giờ cũng là vấn đề trọng đại Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Thái độ đối với "quốc gia xã tắc" chính là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo tiếng gọi của "quốc gia xã tắc"năm Đinh Tý (1-1258), Trần Thái Tông trở về triều và 22 năm saubiết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông đã phá tan quân xâm lược Nguyên MôngQuốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo, giữ vững "quốc gia xã tắc"con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Đại Việt quyết chống giặc.Trần Bản thân Thái Tông quả là người có một tính cách đặc biệt. Lúc cũng tự làm tướngđi đốc chiến, đánh giặc thì anh dũng "xông vào mũi pha tên hòn đạn", khi làm vua, thì "phú quý không đủ làm trọng", có thể sẵn sàng từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc.
Ngô Thì SĩTháng 12 năm Đinh Tý (21-1-1258), sử gia thế kỷ 18 đã nhận xét về Trần vua Thái Tông: "cùng Thái tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần Thái Tông tuy ý từ gần với đạo không tịch mà chí thì rộng xaphá tan quân Nguyên ở Đông Bộ đầu, cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút đôi dép rách vậy"giải phóng Thăng Long.
Lời nhận xét này tưởng như một nét khắc thần thái Trần Thái Tông, bó đuốc của đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông còn được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiền học Việt Nam, gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường một triết gia có tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khóa hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong lịch sử Việt Namkho thư tịch cổ nước ta.</poem>
Trong một văn bản Khóa hư lục có bài "Tự Thiền tông chỉ nam" của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về. ấy là khi Thái sư Trần Thủ Độ thống thiết nói:  " Bệ hạ ở tu cho riêng mình thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Vì để lời nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi".  Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề "quốc gia xã tắc" lên trên hết, trước hết là như thế. Thái độ đối với quốc gia xã tắc là thước đo giá trị mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông quả là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc "xông vào mũi tên hòn đạn", làm vua nhưng xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.  Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho Thái tử quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nuớc.  Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.    TRẦN THỪA  Trần Thừa sinh năm Giáp Thìn (1184), vị Thượng hoàng đầu tiên của triều Trần và là con cả của Trần Lý, anh ruột của Trần Tự Khánh và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung.  Ông tổ của Trần Thừa là Trần Kính vốn gốc ở Đông triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Tức Mạc (Nam định). Kính lấy vợ  Kính lấy vợ ở Tức Mạc sinh ra Trần Hấp tòm sang Hải ấp (Thái Bình) nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú rồi định cư ở đó. Nhờ có công phò tá triều Lý , khôi phục lại kinh thành, năm Bính Tý (1216), Trần Thừa được vua Lý Huệ Tông phong làm Nội thị phán thủ. Năm Quí Mùi (1223) khi Trần Tự Khánh mất, vua phong làm Thái úy phụ chính.  Khi Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ nghĩ ngay tới việc truyền ngôi cho Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, bèn thưa với Trần Thừa chuyện ấy. Trần Thừa ngần ngại:  Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.  Trần Thủ Độ phân trần:  Tôi xem diện mạo Trần Bố (Trần Cảnh) mũi cao, hai gò má trội đúng là là long chuẩn long nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương nguời, có khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng thời thế lúc này có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu vãn được vận nước suy vi. Trời cho mà mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.  Trần Thừa bảo Thủ Độ:  Mọi việc tùy chú định liệu, làm sau cho thành sự thì làm. Hoá nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.  Khi Trần Cảnh lên ngôi vua, nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên ngày càng nhiều, Trần Thủ Độ mời Trần Thừa lên làm Thượng hoàng, lo giúp Thái Tông điều khiển triều đình để Thủ Độ rảnh tay dẹp loạn. Không đầy mội năm , Thủ độ vừa đánh dẹp vừa thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính. Thuợng hoàng Trần Thừa yên vị có người tài năng hơn mình trông coi việc nước, mặc sức lao vào thú vui săn bắn. Vùng Từ Sơn còn lưu truyền câu chuyện tình của Thượng hoàng với cô thôn nữ xinh đẹp có tên là Tần:  Sáng ấy, Trần Thừa cùng lính tùy tùng về châu Cổ Pháp để săn chim. Xế chiều, Trần Thừa bắn trúng một con bạch trĩ. Mũi tên không trúng vào chỗ hiểm. Trần Thừa phi ngựa đuổi mãi đến nỗi đám lính tùy tùng bị lạc. Đến khu rừng quang, không thấy bóng chim nữa. Thất vọng định quay về thì thấy ở một đồi sắn gần đó có cô thôn nữ khỏe mạnh, xinh đẹp đang vừa làm vừa hát. Trần Thừa tìm đến. Khi thấy Trần Thừa, cô gái sợ hãi, luống cuống về sự ăn mặc trễ tràng của mình. Sự e lệ càng khiến cô gái thêm vẻ quyến rũ. Cô biết Trần Thừa là người quyền quý. Niềm tin vào người quyền quí khiến cô gái không thấy sợ nữa. Vị Thượng hoàng đắm đuối ngắm nhìn cô gái, hỏi thăm gia cảnh. Cô tên là Tần, cha cô mất sớm, chỉ còn mẹ già. Trần Thừa giãi bày tình yêu nồng nàn của mình. Cô gái phần vì khiếp nhược, phần vì e lệ mà không dám trối từ. Chiều ấy đám lính tùy tùng không tìm thấy chủ. Bởi vì, Trần Thừa đã về nhà Tần, ép cô gái phải chiều chuộng mình.  Sáng hôm sau, Trần Thừa từ biệt gia đình lên ngựa về kinh. Linh cảm có điều hệ trong sẽ xảy ra, Tần chạy theo níu lấy áo Trần Thừa khóc như mưa. Cô nói tới trách nhiệm của người đã làm chồng cô một đêm. Trần Thừa thề thốt sẽ quay lại và để làm tin, ông đã rút kiếm cắt một vạt áo tía của của mình trao cho cô gái. Ông dặn dò nếu có bề nào hãy tìm ông ở kinh sư. Rồi năm tháng qua đi, Trần Thừa đã quên khu rừng săn ấy. Còn Tần, cô đã lo đúng điều đã xảy ra, cô đã mang thai. Chịu búa rìu dư luận nhưng cô không về kinh sư tìm Trần Thừa vì cô biết rằng nếu vị Thượng hoàng yêu cô thì đã quay trở lại. Rồi cô sinh được một bé trai khỏe mạnh. Đứa bé được đặt tên là Trần Bà Liệt. Lớn lên Trần Bà Liệt theo học một lò vật và khỏe mạnh ít người địch nổi.  Năm ấy kinh sư có giải vật lớn nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp nước. Vua Thái Tông và Thượng hoàng thân đến xem. Đô Liệt cũng về dự. Sau cả tuần thi vật, đô Trâu (khỏe như trâu) đã lần lượt hạ hết các đối thủ. Đô Liệt xin vào tỉ thí. Ngay từ đầu đô Trâu đã phải gờm sức khỏe của Đô Liệt. Trống thúc đồn dập, keo vật sôi động. Bỗng sau miếng đánh trượt, Đô Liệt bị đô Trâu dùng miếng hiểm vít được cổ xuống, mong giết chết một địch thủ đáng gờm. Trong lúc điên cuồng để thoát khỏi chết ngạt, chiếc khăn trên đầu đô Liệt tung ra. Một vạt áo tía rất lạ nằm trên thảm cỏ bê bết đất. Thượng hoàng Trần Thừa đã nhận ra vạt áo ấy. Ông hạ lệnh ngừng ngay keo vật, quên hẳn địa vị của mình đến ôm lấy Liệt, đứa con mà ông đã phũ phàng bỏ rơi mẹ nó. Trần Bà Liệt được giữ lại ở kinh sư và được nhận làm con Thượng hoàng. [[Thể_loại:Văn_chương_Việt_Nam]][[Thể_loại:Danh_nhân_Việt_NamTruyện_cười_dân_gian]]
Người dùng vô danh