Là những người thờ Chư Vị. Thờ bà chúa Liễu Hạnh, bà chúa Thượng Ngàn... thì gọi là đồng Đức Mẹ. Thờ các hoàng tử thì gọi là đồng Đức Ông. Thờ các cậu gọi là đồng Cậu; thờ các cô gọi là đồng Cô.

Đàn bà hay đau yếu, chữa mãi không khỏi, hay suy nghĩ vẩn vơ, lại bị bạn bè xui giục, tự cho là mình có số phải thờ, phải đội bát nhang xin làm con công, đệ tử ở tĩnh thờ nào đấy; rằm, mồng một phải đến lễ.

Người đồng cốt phải sắm khăn chầu áo ngự khá tốn kém, vì ngồi giá đồng nào phải mặc quần áo riêng thích hợp với giá ấy. Có người đi lễ xa, phải mang cả chục bộ khăn chầu áo ngự. Những nơi nổi tiếng, nhiều người đến lễ là đền Sòng, đền Phủ Giầy, đền Bắc Lệ... Khi lên đồng, có cung văn đệm đàn, hát chầu văn. Người lên đồng uốn éo nhảy nhót, phát ra những tiếng the thé để phán bảo những người kêu cầu, ban lộc cho cung văn, cho “ghế”, “đệm” ngồi hầu bóng ở xung quanh đang hết sức tâng bốc, nịnh hót…

Có khi đồng phán cho lấy rượu hoả thang để đồng rửa mặt rửa tay, ban cho tàn hương nước thải để về nhà uống, hoặc ban cho một chén nước quết trầu để về xoa chỗ đau. Nhà chủ đã cúng một hôm rồi thì mỗi tối phải trầu rượu hương hoa đến lễ, xin dấu uống hoặc xin bùa đeo. Khi nào bệnh bớt thì phải lễ tạ, tuỳ đồng phán gì thì phải biện lễ cho đủ, hoặc bày gà, xôi oản quả, hoặc bằng tiền.