Rước là cầu nối giữa lễ và hội mà trong hầu hết các hội làng ở Hà Nội đều có. Có đám rước của một làng, có đám rước của 8 làng như ở đền Cổ Loa, 10 làng ở chùa Nhót, 5 làng ở Kẻ Mọc... Lại có rước “đánh giải” từ làng này sang giao hiếu với làng kia theo nghĩa kết chạ như làng Thúy Lĩnh với hai làng Nam Dư, Bắc Biên với Hội Phụ, Hải Bối với Kim Chung, đình Kim Liên với đền Hàng Than...

Thông thường Rước Kiệu sắp xếp theo trình tự như sau:

Ông Địa dẹp đường, cờ, trống, lọng, chiêng, voi hoặc ngựa thờ, tán, đồ chấp kích (đao, kiếm, thương, kích, trùy, côn... hoặc bát bảo) phường đồng văn bát âm, múa sênh tiền - mõ lộn, cờ vía hoặc cờ lệnh, long đình có tàn, quạt, lọng, vả che, cuối cùng là kiệu bát cống trên có ngai thờ, tượng hoặc bài vị.

Rước nam thần đô tùy là đàn ông, rước nữ thần đô tùy là đàn bà. Trang phục cổ.

Hội Yên Phụ rước một kiệu bát cống từ cung An Thọ vào đình. Hội Yên Quang rước kiệu “thần hồ” đi ven bờ Hồ Tây. Hội Nghi Tàm rước 6 kiệu từ đình đến chùa Kim Liên lại quay về. Hội đình Vẽ rước 4 kiệu. Hội Nhật Tân rước 7 kiệu: một kiệu thánh Uy đô Linh Lang và 6 kiệu các tướng, trong đó có 1 tướng mẫu do 8 nữ khiêng. Hội Tứ Liên rước 4 kiệu. Hội Hai Bà Trưng Đồng Nhân rước thánh giá ra sông Hồng làm lễ mộc dục.

Hội đình Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương có ba làng rước kiệu đến là Quỳnh Lôi, Phương Liệt, Bạch Mai, rồi cùng rước đến đền Hàng Than thờ thánh Linh Lang.

Cổ Loa có rước “bát xã”. Tám làng là Cổ Loa, Mạch Tràng, Cầu Cả, Đài Bi, Săn Giã, Thư Cưu, Văn Thượng, Ngoại Sát cùng rước kiệu về đình Ngự Triều di quy, làm lễ tế hội đồng. Đám rước còn vòng qua giếng Ngọc và đi trên những đoạn thành cổ.

Rước kiệu ở hội Thủ Lệ đưa bài vị từ đình Vạn Phúc về, phải qua các đồi, gò nhấp nhô, nên đô tùy khiêng kiệu muốn giữ cho kiệu thăng bằng có lúc phải khiêng bò nên dãy đồi gò ấy có tên Núi Bò!

Đám rước ở hội Đền Ghềnh thờ mẫu, đô tùy là 24 cô gái đồng trinh khiêng long đình và võng. Các người cầm cờ, biển, tàn, tán, đi dẹp đường cũng đều là nữ.

Hội Triều Khúc đám rước rất uy nghi, rước tượng vua Phùng Hưng từ đình Sắc về đình chính. Kiệu 16 người khênh, phải có hai tốp thay nhau, 2 quân ngự lâm che quạt vả lớn. Cứ mỗi tiếng trống cái bước một bước, nên đám rước phải đi trong ba tiếng mới đến nơi. Hội Láng rước kiệu lội qua sông Tô gọi là “độ hà” rất vui nhộn.

Làng Giàn (Xuân Đỉnh) rước kiệu Ông, kiệu Bà từ đình Giàn sang chùa Thiên Phúc dâng hương, hôm sau rước tiếp hai kiệu ra miếu thờ Mẫu rồi mới trở lại đình. Đô tùy khiêng kiệu phải chay tịnh một tuần. 16 nam khiêng kiệu Ông, 16 nữ khiêng kiệu Bà. Kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau. Đi mở đường có các đội múa sênh tiền - mõ lộn, múa bồng, múa mặt nạ, múa tứ linh.

Đám rước đi qua cầu bỗng khựng lại, hai kiệu không đi thẳng mà quay tròn khoảng nửa giờ mới tiếp tục chạy nhanh về đình. Tương truyền trong đám rước, Ông cứ hay nhìn về đám gái làng khiến Bà ghen, xoay kiệu hờn dỗi để Ông phải xoay kiệu theo dỗ dành mãi mới chịu đi tiếp.

Hội chùa Đông Phù có rước 10 làng thuộc tổng Nam Phù Liệt xưa là: Đông Phù, Ninh Xá, Đam Uyên, Chanh Khúc, Mỹ ả, Yên Mỹ, Việt Yên, Đông Trạch, Tương Trúc, Tự Khoát. Đông Phù rước nhang án và 1 kiệu bát cống. Ninh Xá hai kiệu bát cống và long đình. Mỗi kiệu do 8 thiếu nữ khiêng, hai lọng che và người cầm kiếm đi dẹp đường. Mỗi kiệu có 8 nữ đô tùy dự phòng để nếu kiệu Bà bay nhiều lần phải thay người. Đám rước hội làng Tứ Liên có bốn kiệu lộng lẫy, đoàn múa sư tử dẫn đầu, rồi đến đoàn múa rồng. Sau kiệu thứ nhất có đoàn tế nam 18 cụ khăn xếp, áo the và đoàn tế nữ 30 lão bà y phục màu sắc lộng lẫy. Sau kiệu nhì có bát bảo và các vãi già mặc áo nâu sồng, cầm phướn hộ tống.

Sau kiệu thứ ba có các con nhang, đệ tử khăn chầu áo ngự, đội mâm ngũ quả. Và sau kiệu cuối cùng là các em thiếu niên.

Hội rước điện Thái Bình (xã Vân Nội, Đông Anh) lại đưa hương án đặt bài vị đức Hưng Đạo đại vương xuống thuyền ở bến Bỏi (Hải Bối), hành hương về Kiếp Bạc, trong dịp giỗ Cha tháng Tám ta hàng năm.

Nhiều hội có tục Rước Nước, khênh kiệu có chiếc chóe sứ ra bờ sông Hồng, rồi xuống thuyền ra giữa dòng, cử một lão ông hoặc lão bà nhè nhẹ, múc từng gáo nước đổ vào chóe. Nước này rước về để bao sái đồ tế tự và làm lễ mộc dục (tắm tượng). Đó là hội các làng Thổ Khối, Đông Dư, Thôn Nha, Bát Tràng, Trung Quan, Chử Xá... (huyện Gia Lâm), Chèm, Nhật Tảo, Nhật Tân, Phú Gia (huyện Từ Liêm và quận Tây Hồ), Võng La, Hải Bối, Mạch Lũng (huyện Đông Anh). Làng Thúy Lĩnh (huyện Thanh Trì) rước nước lấy ở giữa sông Hồng sang bờ bắc làm lễ ở đền Mẫu (xã Đông Dư, Gia Lâm) rồi mới quay về. Hội làng Yên Phụ và Quảng Bá lấy nước Hồ Tây. Hội Gióng lấy nước ở giêng đền Mẫu, hội Giàn lấy nước ở giếng cổ có từ thời Mã Viện.

Rước cỗ được tổ chức ở một số hội.

Hội Chử Xá là rước bánh dày, cỗ thi của 7 giáp. Mỗi giáp một mâm bàn sơn son thếp vàng. Mỗi mâm chia làm 22 ô nhỏ, đặt 22 chiếc bánh dày, hoa quả bày lên trên, do 8 cô gái áo quần trắng, khăn xanh thắt lưng đỏ, khênh đòn.

Mâm cỗ rước của hội làng Vĩnh Tuy có hai tầng, bên dưới là thùng để hồng, chuối, cốm, bên trên là 12 phẩm oản to đóng bằng xôi nếp.

Làng Kim Liên thi mâm cỗ bảy tầng, tầng dưới cùng là xôi gấc, rồi đến giò, chả, bánh su sê, gà luộc để cả con tạo dáng thành các hình Phật Bà, Thạch Sanh, Lã Vọng... và các tầng hoa trái.

Làng Đại Lan (xã Duyên Hà) có tục rước cá lăng sống. Cứ ba giáp một con, nặng trên dưới 10kg.

Cá đặt trên án thư, buộc dây vải đỏ. Trình thành hoàng xong đem về làm cỗ gồm: gỏi cá lăng; cá lăng cắt miếng ướp nghệ đun chín, bày vào đĩa, rắc giềng giã nhỏ, canh cá lăng băm viên nấu rau cần. Cỗ cá lăng đặt trong mâm sơn son thếp vàng có chân. Mâm thùng do hai trai làng áo the, khăn xếp, thắt lưng đỏ khiêng, có hai lọng che. Rước cỗ từ nhà đăng cai ra đình, ban nhạc bát âm dẫn trước.

Cỗ rước làng Cáo Đỉnh có 200 bánh dày to, làm lễ ông bà Vũ Phục xong, phát lộc cho dân.

Hội Phủ Tây Hồ và Thôn Nha có tục rước mã đưa về thờ.

Vui nhộn là hội rước Thánh Tăng làng Phú Xá. Tượng thánh là một cậu bé áo triều thiên, mũ cánh chuồn, tạc ở tư thế ngồi, đặt trên kiệu, do mười người cả trai, gái túm vào khênh từ dốc đê về ngã ba Nhật Tân. Rước ban đêm dưới ánh trăng, vừa rước vừa hô: Hù hí! Hù hí!

Trong hội Gióng (Phù Đổng) có rước “long giá”, tức là con ngựa gỗ rất lớn sơn trắng đặt trên giá có bốn bánh xe, kéo bằng dây chão to.

Hội Gióng đền Sóc lại rước voi giấy, đan cốt tre, phất giấy rồi sơn đen, từ đình làng Dược Thượng về đền Sóc.

Ngày xưa, kinh thành Thăng Long còn có rước trâu đất và Thần nông, quan Phủ Doãn tiến hành đắp tượng. Đúng ngày lập xuân, dân tổ chức rước tượng đất của trâu “Xuân Ngưu” và Thần nông “Câu Mang” từ đền Bạch Mã ra đàn tế ở cửa Đông Hà. Trâu đất được nhuộm màu ứng với thuyết ngũ hành. Năm nào trâu trắng là mùa màng gặp khó khăn. Lễ tế vào nửa đêm. Một vị trưởng họ đánh roi vào trâu đất rồi rước vào sân điện làm lễ “tiến Xuân Ngưu”. Trong đám rước, mọi người cùng hát:

"Bao giờ Mang hiện đến ngày
Cày bừa cho kỹ mạ này đem gieo".
Rước trong lễ hội có thể coi như một trò diễn với các lớp lang, thể lệ quy định khá chặt chẽ. Người được tham gia rước lấy làm vinh dự, người đi xem rước thì hô hào, cổ vũ, khích lệ các đô tùy và phù giá, gây nên không khí náo nức trên suốt tuyến đường rước.