Trước đây được dựng ở nông thôn Việt Nam. Nhà một tầng, thường quay hướng nam, bố cục trong khuôn viên kín. Cây lớn được đẩy ra sát hàng rào, cây phục vụ bữa ăn ở vườn chính, cây hoa ở gần sân phơi trước nhà. Giếng nước và bếp cùng kiến trúc phụ khác thường ở bên phải hoặc phía sau (tránh khói và uế khí vào nhà chính). Nhà đất có hai dạng:

1 - Cột tre thanh, buộc ô cáo, rồi trát đất trộn rơm (gọi là vách đứng);
2 – Dùng đất thịt trộn trấu và mùn cưa nện chặt thành tường (dùng ván bó hai bên để đắp).

Mái được lợp bằng lá gồi, cọ, rạ... khá dầy, đỡ mái là các kèo, rui, mè với các khâu liên kết là đòn nóc, con sò (liên kết đầu kèo). Nhà đất thấp, thường ba gian, nền cao hơn sân, gian giữa có bàn thờ tổ tiên kê trên một rương (hòm bàn) lớn, gian hai bên kê giường nằm; nhà đất không có cửa sau và bên, nên tối và khá mát, đồng thời tránh trộm. Người giàu thường dựng “nhà ngói cây mít” song cũng không bao giờ lát nền, nhằm tạo cho âm khí của đất được giao hòa cùng khí dương.