Làng nghê mây Chương Mỹ (Hà Tây)

Từ Dữ liệu văn hóa Việt Nam
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Ở huyện Chương Mỹ (Hà Tây) có làng Phú Vinh nổi tiếng về nghề mây từ lâu đời. Nhân dân ta xưa nay đều coi đất Phú Vinh là "xứ Mây", là quê hương của mây đan với những sản phẩm mỹ nghệ bằng mây đạt tới tỉnh cao nghệ thuật tạo hình dân gian của Việt Nam. Người Phú Vinh cha truyền con nối, đến nay đã sáng tạo được 180 mẫu hàng, xuất khẩu là chủ yếu gồm đủ mọi thứ: đĩa mây, lẵng mây, làn mây, chậu mây, bát mây...

* Đĩa mây: gồm đĩa tròn, đĩa bát giác, đĩa rua miệng, đĩa vuông, đĩa chữ nhật, đĩa bán nguyệt, đĩa vỏ dưa, đĩa hoa muống, đĩa lót tròn...

* Bát mây: có bát răng cưa, bát rua miệng, bát trơn mộc, bát đáy dày...

 * Chậu mây: có chậu đứng cong, chậu thắt suốt, chậu thau...

* Lẵng mây: lẵng xách tay, lẵng bán nguyệt, lẵng quai chai...

* Làn mây: làn viên trụ, làn chữ nhật, làn kép, làn đơn...

Để hiểu rõ những kỳ công của quá trình làm ra sản phẩm mây đan, chúng ta hãy tìm hiểu về cây mây, kỹ thuật chế biến mây và bàn tay tài khéo của người thợ thủ công mà tiêu biểu là người thợ mây Phú Vinh. Cây mây lớn rất chậm, mỗi năm nó chỉ dài thêm ra được 1 mét, khi dài tới 5 mét thì phải thu hoạch. Cây mây non hoặc già quá chất lượng đều kém. Muốn cây mây thẳng, khi trồng phải đặt rễ mây cho thẳng. Rễ dài đến đâu cũng phải đào hố trồng sâu đến đấy để đặt rễ cho thẳng.Kinh nghiệm cho thấy, khi đặt rễ thẳng như thế, dù cây mây có leo, có cuốn xoắn vào cây khác thì khi chẻ sợi mây cũng cứ thẳng, không bị vặn.

Kỹ thuật chế biến mây bao gồm hai công đoạn: phơi sấy và chẻ mây.

Khi sấy, nhiều khói quá mây cũng đỏ, ít khói quá cũng bị đỏ. Khi phơi, gặp mưa thì sợi mây mất vẻ đẹp, mà nắng thì sợi mây mất vẻ tươi. Sợi mây chưa khô tới thì nước da bị úa, mà khô kiệt quá thì nước da mất vẻ óng mềm. Do đó, phơi sấy mây đòi hỏi phải đúng kỹ thuật. Người làm các công việc này không thể sao nhãng mà phải liên tục săn sóc, theo dõi như người chăn tằm vậy.

Chẻ mây là công việc công phu, đòi hỏi tay nghề khá cao. Yêu cầu chủ yếu của việc chẻ mây là các sợi mỗi loại thật đều nhau. Loại sợi to để đan cạp các sản phẩm thường. Loại sợi nhỏ dùng để làm những loại hàng quý, hay để tạo các loại hoa cầu kỳ... Kỹ thuật chẻ lẻ khi làm nan sợi tre, mây của ta chính là một sáng tạo quý báu. Tùy thanh tre, cây mây to, nhỏ mà quyết định chẻ chẵn hay chẻ lẻ. Để tạo một cỡ sợi mây nếu chẻ cây mây nhỏ làm tư, làm sáu thì chẻ cây to hơn làm bảy hoặc chín sợi.

Chất lượng và mỹ thuật sợi mây là một trong hai yếu tố quyết định giá trị của sản phẩm mây đan. Người Phú Vinh vốn có tay nghề rất cao. Họ hiểu sâu sắc cây mây, thứ vật tư quan trọng nhất của nghề mây, thuộc nết thuộc tính từng cây, từng sợi mây. Sản phẩm mây được làm ra ở đây đã đạt đến đỉnh cao nhất trong nghệ thuật đan mây hiện nay của Việt Nam. Thành công này trước hết thuộc về công lao các nghệ nhân.

Cụ Nguyễn Văn Khiếu, người làng Phú Vinh là nghệ nhân đan mây nổi tiếng. Cụ chuyên sáng tác mẫu hàng và chưa bao giờ cảm thấy thỏa mãn về những mẫu hàng đã có. Năm nay, cụ đã 72 tuổi nhưng vẫn làm việc đều đặn hàng ngày. Cụ miệt mài sáng tạo mẫu hàng. Suốt ngày cụ nghiền ngẫm sợi mây. Bằng những sợi mây óng chuốt, nghệ nhân Nguyễn Văn Khiếu đã kết nên biết bao mỹ nghệ phẩm tuyệt diệu, thể hiện sinh động cảnh sóng nước, mây trời, chim bay, cá lượn, cây cỏ, hoa lá, lâu đài... Theo cụ, nghề mây cũng như các nghề thủ công khác, chỉ thành công khi nào làm ra những sản phẩm có hồn. Khi cần sợi mây đan đôi chim bay, chợt nhìn thấy chim vỗ cánh bay. Càng ngắm càng thấy chim đang vỗ cánh bay cao dần. Với hoa cũng vậy, làm sao để người ta nhìn, càng nhìn càng thấy hoa nở tươi hơn, duyên dáng hơn. Nếu như họa sĩ vẽ tranh được dùng ít ra là 7 màu cơ bản thì nghệ nhân làm mây chỉ dùng có hai màu: sợi mây màu trắng ngà và cật giang ngâm nước lá bàng cho đen. Chỉ hai màu ấy, dưới bàn tay người thợ thủ công có tài, sản phẩm hiện lên núi, sông, phong cảnh, chim thú, nhà cửa, con người... Diễn tả dáng điệu, phong cách, tính cách mỗi con người thực trên tác phẩm chân dung bằng mây, nghệ nhân cũng phải từ hai màu ấy của sợi mây, giang mà tính toán nên.

Nghề đan có khuôn mực của nó. Ấy là phương pháp và nguyên tắc kỹ thuật đan, cài. Dù là thợ hay nghệ nhân, không ai có thể vượt ra ngoài khuôn mực ấy. Chẳng hạn khi đan cái dần, cái sàng, cái thúng, cái nia bằng tre, đã đan lóng mốt thì chỉ được bắt nan lóng mốt, đan lóng đôi chỉ được bắt đều lóng đôi. Nếu bắt sang lóng ba, lóng tư là lỗi ngay. Trong nghề đan mây cũng thế, khi đan chân dung, đã bắt 5 thì phải đè 5 - bắt 6 hoặc 4 đều lỗi... Cụ Khiếu đã "giải mã" được bí mật kỹ thuật này sau những suy nghĩ tìm tòi và thử nghiệm công phu. Nhưng thành công của cụ trong lĩnh vực này và hàng loạt mẫu hàng mới khác chưa phải là những sáng tạo cuối cùng của cụ. Bây giờ cụ đang trăn trở trước cái mẫu mới. Cụ mong muốn nghề mây đan của ta còn tiến mãi, tiến cao hơn nữa.