Theo tài liệu thống kê và nhân chứng, đồng bào Bania (Bahnar, Bana) hiện nay có 136.859 người ở rải từ Kontum, Pleiku, An Túc và phía tây hai tỉnh Bình Ðịnh, Phú Bổn (nay thuộc Phú Yên). Dân tộc thiểu số Bana có bảy chi nhánh nhưng chỉ có ba nhánh: Alakông, Tơ lô và Bơ Nam (B.Mơ Nam) là tập trung ở An Túc, dọc biên giới phía tây tỉnh Bình Ðịnh và đông đảo ở huyện Vĩnh Thạnh Hàng năm, từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, dân tộc Bana theo truyền thống mở lễ hội tạ ơn Giàng (Yang) là đấng thần linh tối cao của họ. Người Bana gọi lễ ấy là Koh Kpô hay Groong Kpô Tonơi, tiếng Việt gọi là Lễ Hội Ðâm Trâu.

Theo Ðặc sản Văn hóa Bình Ðịnh (ấn hành tại Qui Nhơn, 1992) và các tài liệu khác, già làng chọn bãi đất rộng, bằng phẳng thuộc địa phận buôn làng mình để dựng giàn tế (gưng) là một quân thể gồm: Một cây tre cao, thẳng, còn nguyên ngọn, gốc được chôn vững vàng gọi là nêu, sát bên cây nêu là một cột lớn rắn chắc bằng cây muôn hay cây plang, cũng được chôn chặt để đỡ cây nêu và dùng vào việc buộc trâu; nhưng nếu chọn được cây săn thẳng, đủ vững chắc để làm nêu thì không cần trụ buộc trâu nữa. Và quanh cây nêu còn trồng 4 hay 8 trụ gỗ tròn, cao độ 3 mét, đường kính khoảng 15cm. Các trụ gỗ này được bố trí theo hình hoa thị đối xứng từng cặp và trang trí thành những vành khuyên sơn màu đen, trắng, xanh, đỏ xen kẽ nhau. Ở đầu các trụ gỗ có các thanh ngang buộc nối hai trụ lại với nhau, cấu kết theo thế liên hoàn vững chắc. Dọc theo chân cây nêu có các dây buông dài, tết bằng lạt tre buộc những tấm nan hình tam giác và các ống tiêu gió bằng cây lồ ô đưa vi vu trước gió. Trên cùng cây nêu có treo túi thiêng, tiếp theo là cánh phướng đan bằng lạt giang, biểu tượng cho chim đại bàng (kring), hình ảnh của sức mạnh và trí tuệ

Lễ hội Ðâm Trâu được tổ chức trong ba ngày, hai ngày đầu tại giàn tế (gưng), ngày cuối ở sân Nhà Làng (nhà Rông). Ngày thứ nhất, người ta dắt một con trâu to béo, đầy sức lực đến giàn tế, nối cổ trâu vào cột tế (Plang Kpô) bằng một dây thừng bện thật chắc, dài độ 2 mét tây. Dân trong buôn và người xem đứng bao quanh giàn tế thành một vòng tròn rộng.

Giờ hành lễ bắt đầu, dàn cồng rộn rã nổi lên chen lẫn âm thanh của bộ chiêng rền vang, kết hợp với bộ trống lớn (Bnưng) dồn dập, dậy lên bản giao hưởng hùng tráng như tiếng gọi từ hồn thiêng ngày hội.

Các thanh niên nam nữ xếp hàng dọc, tay cầm gậy múa Kơ tếch (điệu múa dành riêng cho lễ hội Ðâm Trâu), đi vòng quanh giàn tế theo chiều ngược kim đồng hồ, vị tù trưởng đứng vai chủ tế dẫn đầu các vị bô lão (chừng 5, 6 người), mặc lễ phục sặc sỡ từ từ tiến đến giàn tế, quỳ rạo khấn vái thần Giàng (Yang). Tiếp theo bài khấn là lễ Hiến tế, một bô lão mạnh mẽ nhất trong ban tế lễ, tay cầm giáo, tay cầm khiên bước ra khỏi hàng, lựa thế đâm một nhát vào con vật tế thần. Tuy bị thương nhưng trâu vẫn còn sức mạnh, cố bứt dây chạy thoát nhưng không được, đành chạy vòng quanh giàn tế. Mọi người trong buôn đồng loạt hú lên, rung chuyển cả núi rừng và đi quanh giàn tế đánh cồng, múa hát đến chiều tối mới mãn.

Ngày thứ hai, cả buôn tập trung bao quanh giàn tế để làm lễ hiến sinh. Lần này trai tráng trong buôn vào cuộc. Họ cầm vũ khí và khiên, la hét, dồn đuổi con trâu chạy quanh giàn tế. Họ thi nhau bắn cung, phóng lao, đâm giáo vào con vật tế thần. Lòng dũng cảm và sự khôn khéo của họ được thể hiện qua cách săn đuổi con mồi, và phần thưởng chiến thắng dành cho chàng trai nào lựa được thế, đâm thẳng tim con vật gục xuống chết ngay. Già làng cầm bát đồng hứng máu tươi, hòa với rượu dâng thần linh. Tiếng hú mừng chiến thắng lại một lần nữa vang trời dậy đất.

Trâu được xẻ thịt ngay tại chỗ, chọn thịt ngon và toàn bộ lá gan chia đều cho năm nhóm rồi vảy máu đã hòa rượu, cung kính đật trên bàn thờ thần Giàng. Già làng đứng ra khấn bái. Xong lễ, gan trâu được chia đều cho tất cả trai tráng trong buôn. Họ tin rằng ăn gan đó sẽ tăng cường sức mạnh và lòng dũng cảm vì đã có thần Giàng chứng nhận.

Ngày thứ ba, túi thiêng trên cây nêu được rước về thờ ở nhà Rông, đặt ngay chỗ để vò rượu chính. Già làng làm lễ khấn xong, gọi mọi người đến uống rượu này vì tin rằng ảnh hưởng của túi thiêng đã hòa trong rượu, uống vào sẽ tiêu trừ những rủi ro bệnh tật. Họ còn tổ chức những trò chơi thượng võ ngay trước sân nhà Rông như bắn cung, đấu kiếm, phóng lao, đấu võ... cuộc vui suốt ngày và kéo dài đến thâu đêm suốt sáng.

Lễ hội ngày xuân ở Bình Ðịnh còn nhiều lắm, vì bài viết giới hạn trong khuôn khổ trang báo, không thể nêu lên hết được. Ngày nay, các lễ hội như Chợ Tết Gò Chàm, Hội Tết Chợ Gò, Lễ Hội Ðống Ða vẫn còn đó, tuy có thay đổi ít nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh của mỗi thời đại. Hội Hát Xuân đã tắt lịm từ lâu, nhưng dân chúng vẫn còn nuối tiếc. Mỗi dịp xuân về, ở một vài nơi còn gắng gượng tổ chưc đám hát nho nhỏ tại địa phương. Dĩ nhiên không thể nào có được cái huy hoàng ngày cũ và cũng không thể giữ lệ đều đặn hàng năm. Lễ Hội Cầu Ngư tuy vẫn còn nhưng thu gọn lại nhiều, màn diễn bả trạo đã vắng bóng, còn hát bội thì năm có năm không, lệ cắt tiết các con vật trước sân tế đã bỏ hẳn vì không ai muốn đem vào cuộc vui cảnh lưu huyết thương tâm.

Còn Lễ Hội Ðâm Trâu của người Bana đã rút ngắn còn một ngày đêm, con vật chịu lễ được các tay thiện nghệ nhanh chóng đâm chết, không còn cảnh săn đuổi kéo dài sự hãi hùng đau đớn và người dự lễ hội đỡ bị căng thẳng thần kinh vì thương cảm.