Chiếc vòng bạc

Từ Dữ liệu văn hóa Việt Nam
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Thiên tình sử bi tráng Kham Panh kể rằng xứ Mường Khoòng của người Thái xa xưa do Tù trưởng Kham Panh đứng đầu là một vùng đất giàu có và màu mỡ. Con gái ở đây đẹp như trăng rằm còn con trai mạnh như hổ. Làng bản sống như trong hội, như trong xứ sở thần tiên.

Thế rồi một ngày kia có chàng thợ bạc, con tộc trưởng Khun Ha ở phía Bắc lần mò đến đất Mường. Chàng trẻ tuổi, đẹp trai, ăn khôn nói khéo. Tuy nhiên, thế cũng chưa có gì là đặc biệt với người Mường Khoòng. Duy một thứ chàng có mà đất Mường chưa bao giờ có, đó là nghề thợ bạc. Chàng ta là một thợ bạc giỏi giang. Chàng đem những vòng cổ, vòng tay, khuyên tai ra để thu hồn những cô gái đẹp Mường Khoòng. Trong số đó, có cô con gái yêu của tù trưởng Kham Panh – nàng Mứn. Thế là những nghi kỵ về người xứ lạ dần tan biến đi như sương mù gặp nắng, như cơn mưa gặp gió. Chàng trai ngày ngày đánh vòng, gò khuyên tai cho con gái Mường, không bao giờ hết việc. Con gái tù trưởng Kham Panh đã đem lòng yêu chàng thợ bạc.

Nhưng có ai ngờ đâu đó là cái bẫy. Chàng trai đã dùng nghề thợ bạc để có cớ lưu lại do thám đất Mường. Ngày cưới của con gái tù trưởng với chàng thợ bạc cũng chính là ngày khởi đầu bộ tộc Khun Ha ém đường đưa quân đến thôn tính Mường Khoòng. Thiên tình sử đẹp đã trở thành khúc ca bi tráng bởi sự thất thủ của Mường Khoòng. Chiếc vòng bạc trong trường ca Kham Panh như muốn nhắn lại cho đời sau một triết luận: Trong mọi vẻ đẹp đều ẩn chứa một mối hiểm họa khôn lường.

Trở lại chuyện chiếc vòng trong đồ nữ trang các dân tộc thiểu số. Phụ nữ miền núi phía Bắc có nhiều loại vòng: Vòng cổ, vòng tay, vòng chân, vòng vía hay vòng đeo tai. Vòng thường được làm bằng kim loại. Quý nhất, đắt nhất là vòng bạc, ngoài ra còn có vòng sắt, vòng đồng (hai loại này thường là vòng vía để giữ hồn, kỵ gió máy, đuổi tà ma) lại có vòng được làm bằng cườm, xâu hạt thành dây để đeo cổ hoặc tay (ở dân tộc Dao, Phù Lá, Tày).

Cách đeo vòng ở phụ nữ dân tộc cũng rất khác nhau. Phụ nữ Tày thường chỉ đeo chiếc vòng bạc vừa đủ để tạo nên độ sáng lấp lánh trên nền áo chàm. Dân tộc Dao thì khác, ngoài các đồ trang sức trên ngực áo, nẹp áo, thắt lưng, họ còn đeo nhiều vòng cổ có khi từ năm đến bảy chiếc tương phản mạnh với trang phục rực rỡ. Với người Dao, đeo vòng nhiều khi còn là sự khoe giàu khoe có. Số lượng vòng trên cổ còn như để xác định vị thế của người con gái danh giá. Ở Tây Nguyên còn có vòng tay cầu hôn. Chưa rõ thủ tục cầu hôn trao vòng như thế nào, nhưng với con gái Dao khi ra chợ được chàng trai nào đó sấn đến cướp vòng tay thì cũng được coi như sự ngỏ lời. Người con gái không quyết liệt đòi lại là biểu hiện nhận lời. Và chàng trai giữ lại chiếc vòng như vật làm tin. Duyên vợ chồng sẽ dần được khẳng định. Người Thái có cả một trường ca bi thương về chiếc vòng nhưng phụ nữ cũng chỉ giản dị đeo trên cổ một cái vòng bạc hoặc đồng, hoặc thêm một cái vòng tay.

Được biết, người Mông (cụ thể là Mông trắng) đeo nhiều đồ trang sức nhất. Thứ đồ được ưa thích nhất của họ là vòng cổ với nhiều kích thước to nhỏ, nhiều họa tiết trang trí cầu kỳ với nhiều chất liệu khác nhau dùng thành từng bộ trong ngày cưới, ngày lễ hội. Ngày thường họ chỉ đeo vòng vía bằng bạc hoặc đồng hoặc dây mây. Riêng vòng vía đeo vào thì không cởi bỏ, bởi vòng vía cốt để trừ tà ma, đau ốm. Trẻ em đeo vòng bạc để kỵ gió máy, giữ sức khỏe.

Ngoài các dân tộc kể trên, phụ nữ các dân tộc khác cũng đều sử dụng vòng bạc và các kim loại khác để làm đồ trang sức, mức độ khiêm nhường hơn nhưng nó luôn là đồ nữ trang ưa thích của người phụ nữ.

Xung quanh chiếc vòng trang sức là cả một câu chuyện dài gắn liền với vẻ đẹp vĩnh hằng của người phụ nữ. Cũng bởi thế, nó góp phần để lại trong ký ức nhân gian nhiều chuyện vui buồn còn tiếp nối.