Ngày xưa, sắc thần thường để ở nhà các hương chức cất giữ, hoặc để trong nhà của những người trong ban tế tự. Đó là những người đủ uy tín, phẩm hạnh mới được giao giữ sắc thần. Bởi vì ngày xưa, thỉnh thoảng có xảy ra hiện tượng mất cắp sắc thần nên sau này người ta không dám cất sắc thần trong đình. Sắc thần là thiêng liêng cho nên đình nào có sắc thần là xem như sự công nhận hợp pháp của nhà nước đối với đình thần làng mình. Còn đình nào không có sắc thì chẳng khác nào “đình chui”, không đủ uy tín để mọi người tin tưởng đến cúng bái và cũng không đủ hiển linh để người ta đến cầu nguyện. Cho nên có những đình không có sắc thần thường tìm cách mua lại sắc thần của những kẻ trộm.

Sắc thần ở Cần Thơ phong cho các vị Bổn Cảnh Thành Hoàng phần lớn là những vị thần trong ý niệm, hữu danh vô thực cho nên việc đình này mua lại sắc thần của đình kia cũng chẳng phương hại gì. Cái nào cũng là “Sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng” chứ không hề có danh tánh cụ thể. Theo niềm tin của người xưa, sắc thần là thiêng liêng nên phải cất kỹ, không thể tùy tiện mở, nên không dễ mấy ai nhìn kỹ sắc thần. Một số ngôi đình ở Cần Thơ còn có lệ phơi sắc thần. Lệ phơi sắc này gồm hai mục đích: Thứ nhất, sắc thần được để trong hộp, cất kỹ suốt năm nên rất dễ bị ẩm ướt, mối mọt nên trong lễ cúng đình người ta đem sắc ra phơi là để kiểm tra xem sắc có bị hư hỏng không và cũng là để cho sắc có sự thông thoáng tránh bị ẩm ướt. Thứ hai, phơi sắc cũng là sự tự hào của đình làng mình vì đình mình có sắc. Điều này cũng để cho mọi người thấy đình làng mình là “đình chính thức” có sắc hẳn hoi, có sự công nhận đàng hoàng.

Nghi lễ thỉnh sắc thường bắt đầu bằng một hồi trống để báo cho dân làng biết để đến cùng đi thỉnh sắc và cũng là một cách báo cho dân làng biết để bày hương án hai bên đường cúng tạ ơn thần (Lệ bày hương án hai bên đường ở Cần Thơ ngày nay đã không còn). Kế tiếp là chiêng, trống gióng lên báo hiệu cho cuộc rước bắt đầu. Đi đầu đám rước thường là chiêng, trống, kèn, kế đó là các vị chức sắc, những người trong Ban tế tự – những người này có nhiệm vụ như là những người dẫn đầu đám rước. Kế đó là hai viên chức trong làng. Một ôm ấn kiếm – kiếm của thần và một ông kia bưng dàn lỗ bộ nhỏ.

Tiếp sau là những người ăn mặc như lính hầu đi hai bên, mỗi bên khoảng 4 đến 5 người, tay cầm cờ phướn, đao, kiếm, thương… sau đó là bè thủy lục dùng để rước sắc thần nếu rước bằng đường thủy, hoặc long đình nếu rước bằng đường bộ.

Bè thủy lục được ghép từ 2,3 chiếc ghe lại thành một bè, trên bè đặt kiệu đỏ, trang trí đèn lồng, múa lân biểu diễn trên bè. Trên bè có để hộp sắc thần, có các viên quan hương chức áo trang nghiêm hầu sắc thần, có thêm lễ nhạc ở trước, sau và hai bên. Dân làng ngồi cầm dầm để bơi bè.

Một cái bè nhỏ khác cũng được trang hoàng đẹp đẽ, nghiêm trang đi trước cái bè lớn khoảng 30 thước. Trong bè để trống chiêng, dàn đồ bắc cấu trổi điệu nhạc. Các chấp sự và hương chức có phận sự đi tiên phong ở trên bè nhỏ này. Khi đi rước, trống chiêng, bắc cấu đánh lên rập ràng, inh ỏi. Hai bên bờ sông, mỗi nhà đặt trước cửa một bàn hương án, đèn nhang nghiêm chỉnh, để tỏ lòng thành kính của mình đối với thần linh. Dưới sông ghe xuồng của hương chức đi hầu hạ đông nghẹt và những người hiếu kỳ chèo ghe theo để xem chật ních cả khúc sông. Sắc thần sẽ được để vào Long đình là ngôi đình thu nhỏ, thường làm bằng gỗ, chạm trổ và sơn son thếp vàng – qua một cửa nhỏ ở bên hông, để rước về đình. Long đình đặt trên bàn do bốn người ăn mặc như lính hầu khiêng kiệu. Đi sau bè thủy lục hoặc long đình là những người theo kiệu, các thành viên trong hội đình hoặc dân làng đi theo để thỉnh sắc.

“Khi đám rước đến nơi giữ sắc thần thì các vị chức việc vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế (hay khấn cũng được), gọi là lòng văn nghinh, ngắn gọn, rồi chức việc đứng đầu bưng hộp đựng sắc trao cho chánh hội (hay chánh ban quí tế…) để ông đem ra đặt vào long đình, để đưa sắc về đình. Đến đình, cử hành một nghi thức an vị: tế một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà. Sau lễ này, các chức việc dâng hương ra mắt thần theo sự chỉ đạo của lễ sinh xướng. Trong thời gian sắc thần để ở đình, dân chúng đến lễ bái và dâng hoa quả, bánh trái và tiền bạc góp phần tài chính cho việc tế lễ kỳ yên.

Sắc thần được để tại đình ba ngày lễ và đến chiều ngày cuối cùng lại đưa sắc thần về nơi cất giữ gọi là lễ hồi sắc. Nghi hồi sắc: tế một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà, đọc một bài văn tế gọi là lòng văn tống. Nghi trượng hồi sắc giống như nghi trượng thỉnh sắc. Khi sắc tới nơi cất giữ cũ lại cử hành lễ an vị: một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà. Sau đó đám rước tự giải tán để cử hành nghi lễ cúng đưa khách, nếu có”.

Ngày nay, nghi thức thỉnh sắc thần vẫn còn. Ở Cần Thơ, một số địa phương vẫn để sắc thần tại đình. Đến kỳ tế lễ, người ta có lệ thỉnh sắc thần đi “du ngoạn”. Trong buổi cúng, người ta dâng phẩm vật cùng trà rượu, dâng hương khấn vái xin phép thần ngay bàn thờ thờ Thần, sau đó lấy hộp sắc ra để vào xe rước, gọi là long xa phụng tán, rồi đưa Thần đi một vòng quanh các phố chợ. Mục đích của chuyến “du ngoạn” này là để Thần thưởng ngoạn khắp nơi, đồng thời xem xét cuộc sống của dân tình để Thần có những biện pháp bảo trợ cho phù hợp. Sau đó quay về làm lễ an vị sắc thần, coi như đám rước đã xong./.