(Tạo trang mới với nội dung “Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với bãi bể nương dâu. Thí dụ: "Phút gi…”)
 
(Thay thế văn bản – “Thành_ngữ” thành “Thành_ngữ_-_Tục_ngữ”)
Dòng 33: Dòng 33:
 
(Tản Đà, "Thề non nước" )
 
(Tản Đà, "Thề non nước" )
  
[[Thể_loại:Thành_ngữ]]
+
[[Thể_loại:Thành_ngữ_-_Tục_ngữ]]

Phiên bản lúc 06:02, ngày 27 tháng 3 năm 2020

Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với bãi bể nương dâu. Thí dụ: "Phút giãy bãi bể nương dâu Cuộc đời là thế biêt hầu nài sao. " (Lê Ngọc Hân, "Ai tư vãn" )

Các từ trong thành ngữ bãi bể nương đâu xem ra đều quen thuộc và dễ hiểu. Nhưng tại sao sự tổ hợp, giao kết giữa các từ bãi, bể, nương, dâu lại nói nên sự thay đổi lớn của trời đất, của cuộc đời? Số là, thành ngữ bãi bể nương dâu bắt nguồn từ thành ngữ gốc Hán "thương hải tang điền" liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.

Tương truyền rằng, ở thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi dỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ quan đi tu. Ông đắc dạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma-Cô đến. Ma-cô bảo với Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến Đông hải tam vi tang điền", nghĩa là từ khi hầu chuyện với ông, tôi đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu. Câu chuyện này được lưu truyền trong dân gian và được người đời chắt lọc lấy cái tinh chất để phản ánh sự đổi thay của trời đất và cuộc sống. Trong thơ văn Trung Quốc, hình ảnh bãi bể nương dâu trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng, ví như trong thơ Tô Thức đời Tống có câu "Bất kính bột hải tang điền biến" có nghĩa là: "Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu. Cũng nhờ câu chuyện trên mà dần dà trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ thương hải tang điền. Thành ngữ này được mượn vào tiếng Việt theo lôi can-ke (đồ họa), nghĩa là mượn ý dịch lời. Về ý nghĩa bãi bể nương dâu thường nói dấn sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Thí dụ: "Khóc vì nỗi thiết tha sự thế Ai bày trò bãi bể nương dâu." (Nguyễn Gia Thiếu, "Cung oán ngâm khúc )

Trong cách dùng, các nhà văn, nhà thơ thường rút gọn cái bể nương dâu thành bể dâu hay đâu bể. Dạng thức này sỏ dĩ tồn tại được vì nó vẫn có khả năng khiến cho người đọc liên hội tới các điển tích dã nói đến ở trên:

"Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (Nguyễn Du, "Truyện Kiều" ) "Cơ trời dâu bể đa đoan Một nhà để chị riêng oan một mình" (Nguyễn Du, "Truyện Kiều" )

Gần nghĩa với thành ngữ bãi bể nương dâu trong tiếng Việt còn có các thành ngữ vật đổi sao dời, sông cạn đá mòn. Các thành ngữ này đều nói về sự thay đổi lớn lao của cuộc đời, của sự thế, nhưng không có sắc thái ngậm ngùi, nuối tiếc như thành ngữ bãi bể nương dâu. Về phạm vi sử dụng, các thành ngữ vật đổi sao dời, sông cạn đá mòn thường chỉ nói về sự thay đổi của thiên nhiên, của trời đất trong sự so sánh với cái bất biến của tấm lòng chung thủy. Vì thế, ta thường gặp trong những lời thề ước: "Dẫu rằng vật đổi sao dời Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh"

(Nguyễn Du, "Truyện Kiều" )

"Dù cho sông cạn đá mòn Còn non còn nước vẫn còn thề xưa" (Tản Đà, "Thề non nước" )